Chuyển đổi số được xem là bước đột phá trong thời kỳ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện công cuộc đổi mới, phát triển toàn diện đất nước, CĐS là một trong những chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước nhằm tạo đột phá đưa đất nước phát triển ngang tầm khu vực và thế giới. Đảng và Nhà nước đã xác định CĐSlà một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Trong quá trình này, giảng viên trẻ đóng vai trò quan trọng nhờ khả năng thích ứng nhanh với công nghệ, góp phần hiện đại hóa phương pháp giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ban hành Chiến lược về CĐS quốc gia. CĐS, ngày càng được phát triển và phổ biến rộng rãi, nó được ứng dụng vào rất nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Giáo dục là lĩnh vực thứ hai được xác định ưu tiên trong "Chương trình CĐS quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030", xác định: "Phát triển nền tảng hỗ trợ dạy và học từ xa, ứng dụng triệt để công nghệ số trong công tác quản lý, giảng dạy và học tập; số hóa tài liệu, giáo trình; xây dựng nền tảng chia sẻ tài nguyên giảng dạy và học tập theo cả hình thức trực tiếp và trực tuyến. Phát triển công nghệ phục vụ giáo dục, hướng tới đào tạo cá thể hóa. 100% các cơ sở giáo dục triển khai công tác dạy và học từ xa, trong đó thử nghiệm chương trình đào tạo cho phép học sinh, sinh viên học trực tuyến tối thiểu 20% nội dung chương trình. Ứng dụng công nghệ số để giao bài tập về nhà và kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh trước khi đến lớp học".
Đối với các trường đại học, CĐS mang lại cơ hội áp dụng công nghệ để tạo ra những thay đổi nhanh chóng về mô hình, cách thức tổ chức và phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu xã hội. Với đội ngũ giảng viên trẻ ở các trường đại học là lực lượng tiên phong trong quá trình CĐSnhờ những ưu thế như: Khả năng sử dụng thành thạo các công cụ dạy học trực tuyến như Zoom, Google Classroom và các nền tảng E-learning; sẵn sàng áp dụng phương pháp giảng dạy sáng tạo như Blended Learning, Flipped Classroom; dễ dàng tiếp cận và hợp tác với các nhà nghiên cứu trên thế giới thông qua nền tảng số. Tuy nhiên, giảng viên trẻ vẫn còn những khó khăn thách thức như một số giảng viên trẻ chưa được đào tạo bài bản về phương pháp giảng dạy tích hợp công nghệ; Hệ thống LMS và phòng lab ảo chưa được đầu tư đồng bộ tại một số trường đại học… Chính vì vậy, nâng cao năng lực số cho đội ngũ giảng viên trẻ ở các trường đai học có vai trò quan trọng trong bối cảnh CĐS hiện nay.
Thứ nhất, nâng cao năng lực số cho giảng viên trẻ sẽ giúp đáp ứng yêu cầu chuyển đổi phương thức giảng dạy từ trực tiếp sang trực tuyến một cách toàn diện.
Trong bối cảnh giáo dục đại học đang trải qua quá trình CĐS mạnh mẽ, việc nâng cao năng lực số cho giảng viên trẻ trở thành yếu tố then chốt, giúp đáp ứng yêu cầu chuyển dịch từ phương thức giảng dạy truyền thống sang hình thức trực tuyến một cách toàn diện. Sự phát triển của công nghệ đã làm thay đổi hoàn toàn diện mạo giáo dục, khi các lớp học trực tiếp dần được thay thế bằng mô hình đào tạo từ xa, lớp học ảo với sự hỗ trợ của nền tảng số. Mô hình này không chỉ là giải pháp tình thế trong giai đoạn dịch bệnh mà còn trở thành xu hướng tất yếu, mang lại nhiều ưu điểm vượt trội so với phương pháp giảng dạy truyền thống. đào tạo trực tuyến giúp tiết kiệm đáng kể chi phí tổ chức. Khác với lớp học truyền thống đòi hỏi không gian vật lý cố định, thời gian biểu cứng nhắc và nhiều chi phí phát sinh như đi lại, in ấn tài liệu, lớp học ảo cho phép giảng viên và sinh viên tương tác mọi lúc, mọi nơi chỉ với thiết bị kết nối Internet. Mô hình này tạo ra không gian học tập linh hoạt, đa dạng hóa trải nghiệm người học. Nhờ các phần mềm mô phỏng công nghệ thực tế ảo (VR), sinh viên có thể tham gia phòng thí nghiệm ảo, thực hành kỹ năng trong môi trường số hóa sinh động, thậm chí tương tác người - người và người - máy như trong thế giới thực. Điều này đặc biệt hữu ích với các ngành học đòi hỏi thực hành cao như y khoa, kỹ thuật hay thiết kế. CĐSmở ra cơ hội đa dạng hóa phương pháp giảng dạy. Giảng viên có thể kết hợp bài giảng đa phương tiện (video, infographic, podcast), sử dụng AI để cá nhân hóa lộ trình học tập, hoặc thay thế phòng thí nghiệm truyền thống bằng các mô phỏng 3D, giúp nâng cao hiệu quả tiếp thu và tối ưu thời gian đào tạo. Tuy nhiên, để hiện thực hóa những lợi ích trên, giảng viên trẻ cần được trang bị năng lực số toàn diện, bao gồm kỹ năng sử dụng công cụ dạy học trực tuyến, thiết kế bài giảng số, và ứng dụng các công nghệ tiên tiến như VR/AR, AI vào giảng dạy. Chỉ khi giảng viên làm chủ được công nghệ, quá trình CĐStrong giáo dục đại học mới diễn ra hiệu quả, đáp ứng xu thế phát triển của thời đại 4.0. Do đó, các trường đại học cần đầu tư đồng bộ, từ đào tạo kỹ năng số cho giảng viên đến xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ, nhằm tạo ra môi trường giáo dục hiện đại, linh hoạt và bền vững.
Thứ hai, nâng cao năng lực số cho giảng viên trẻ để thúc đẩy chuyển đổi số trong giáo dục.
Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, việc trang bị năng lực số cho đội ngũ giảng viên trẻ không chỉ giúp họ làm chủ các phương pháp giảng dạy hiện đại mà còn tạo ra bước đột phá trong công tác đào tạo. Cụ thể, giảng viên được nâng cao năng lực số có thể ứng dụng hiệu quả các công nghệ tiên tiến như hệ thống quản lý học tập (LMS), bài giảng điện tử (E-learning), ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm tự động, hay phòng thí nghiệm ảo vào quá trình giảng dạy. Đặc biệt, việc sử dụng các công cụ số như Google Classroom, Moodle hay Microsoft Teams giúp giảng viên quản lý lớp học hiệu quả hơn, tăng cường tương tác với sinh viên thông qua các bài giảng đa phương tiện kết hợp hình ảnh, video, infographic. Bên cạnh đó, năng lực số còn cho phép giảng viên áp dụng các phương pháp đánh giá hiện đại như học tập phân hóa (adaptive learning) thông qua hệ thống trí tuệ nhân tạo, giúp cá nhân hóa lộ trình học tập cho từng sinh viên. Quan trọng hơn, việc làm chủ công nghệ thông tin sẽ mở ra cơ hội lớn cho giảng viên trẻ trong nghiên cứu khoa học, từ khai thác cơ sở dữ liệu học thuật số đến sử dụng các phần mềm phân tích dữ liệu chuyên sâu. Nhờ đó, đội ngũ giảng viên trẻ sẽ trở thành lực lượng tiên phong trong công cuộc hiện đại hóa giáo dục, góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của xã hội số và nền kinh tế tri thức. Điều này càng khẳng định tầm quan trọng của việc đầu tư bài bản và hệ thống vào phát triển năng lực số cho giảng viên trẻ như một chiến lược dài hạn của các cơ sở giáo dục đại học trong thời đại số.
Thứ ba, nâng cao năng lực số - Chìa khóa đổi mới giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Việc phát triển năng lực số cho giảng viên trẻ hiện nay không còn là lựa chọn mà đã trở thành yêu cầu bắt buộc, mang lại những lợi ích đa chiều từ nâng cao chất lượng giảng dạy đến đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học và mở rộng hợp tác quốc tế. Trong lĩnh vực giảng dạy, năng lực số cho phép giảng viên tiếp cận và ứng dụng những thành tựu công nghệ mới nhất như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data) và thực tế ảo (VR) vào thiết kế bài giảng, tạo ra những phương pháp sư phạm hiện đại, sinh động và hiệu quả hơn. Đặc biệt, các nền tảng học tập trực tuyến và hệ thống quản lý học tập (LMS) đã cách mạng hóa phương thức giảng dạy, cho phép cá nhân hóa quá trình học tập theo năng lực của từng sinh viên. Về nghiên cứu khoa học, năng lực số mở ra cánh cửa tri thức toàn cầu khi giảng viên có thể dễ dàng truy cập các cơ sở dữ liệu học thuật quốc tế như Scopus, Web of Science hay IEEE Xplore, cập nhật những xu hướng nghiên cứu mới nhất và tuân thủ các tiêu chuẩn khoa học quốc tế. Điều này không chỉ nâng cao chất lượng các công trình nghiên cứu mà còn tăng cường khả năng công bố quốc tế, góp phần nâng cao vị thế của các trường đại học Việt Nam trên bản đồ học thuật thế giới. Các công cụ phân tích dữ liệu hiện đại như Python, R hay SPSS giúp giảng viên xử lý khối lượng dữ liệu lớn một cách chính xác và hiệu quả, trong khi các phần mềm mô phỏng cho phép thực hiện những thí nghiệm phức tạp mà không cần phòng lab truyền thống. Đại dịch Covid-19 đã trở thành phép thử rõ ràng nhất cho thấy tầm quan trọng của năng lực số trong giáo dục. Khi phương thức giảng dạy truyền thống bị gián đoạn, chính những giảng viên được trang bị tốt về công nghệ đã trở thành lực lượng tiên phong, nhanh chóng chuyển đổi sang mô hình dạy học trực tuyến, đảm bảo tính liên tục của hoạt động giáo dục. Sự kiện này cũng chứng minh tính ưu việt của giáo dục số với khả năng vượt qua mọi rào cản về không gian và thời gian, khi chỉ cần một thiết bị kết nối internet, giảng viên và sinh viên có thể tương tác, chia sẻ tri thức từ bất kỳ đâu. Hơn thế nữa, năng lực số còn tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác quốc tế thông qua các nền tảng làm việc từ xa và hội thảo trực tuyến, giúp giảng viên dễ dàng kết nối với đồng nghiệp quốc tế, tham gia các dự án nghiên cứu xuyên biên giới. Điều này không chỉ nâng cao năng lực chuyên môn của giảng viên mà còn tạo cơ hội cho sinh viên tiếp cận với môi trường học thuật đa văn hóa, chuẩn bị hành trang trở thành công dân toàn cầu. Như vậy, việc nâng cao năng lực số cho giảng viên trẻ thực sự là chìa khóa vàng để đổi mới toàn diện giáo dục đại học, tạo ra giá trị bền vững cho cả người dạy và người học, đồng thời góp phần xây dựng nền giáo dục hiện đại, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và xu thế phát triển của thời đại số. Đầu tư vào năng lực số cho giảng viên chính là đầu tư cho tương lai của nền giáo dục nước nhà.
Thứ tư, nâng cao năng lực số giúp nâng cao năng lực chuyên môn và uy tín khoa học của người giảng viên.
Trong kỷ nguyên số hiện nay, việc phát triển năng lực số cho giảng viên trẻ đã trở thành yếu tố then chốt giúp mở rộng phạm vi ảnh hưởng và nâng cao vị thế chuyên môn của người giảng viên. Năng lực số không chỉ dừng lại ở việc sử dụng thành thạo các công cụ công nghệ mà còn tạo ra bước đột phá trong cách thức truyền bá tri thức, phá vỡ mọi giới hạn về không gian và thời gian trong giáo dục. Nhờ các nền tảng số hiện đại, giảng viên giờ đây có thể chia sẻ bài giảng, kinh nghiệm chuyên môn không chỉ trong phạm vi giảng đường truyền thống mà còn lan tỏa rộng rãi đến hàng nghìn người học trên khắp cả nước và toàn cầu thông qua các khóa học trực tuyến mở (MOOC), hệ thống quản lý học tập (LMS) hay nền tảng giáo dục số. Sự mở rộng phạm vi ảnh hưởng này mang lại nhiều lợi ích đa chiều. Về phía người học, họ được tiếp cận nguồn tri thức chất lượng cao từ các giảng viên uy tín mà không bị giới hạn bởi khoảng cách địa lý. Về phía giảng viên, điều này tạo ra những cơ hội mới về nghề nghiệp và thu nhập thông qua việc tham gia giảng dạy trực tuyến, tư vấn chuyên môn từ xa hay phát triển các khóa học số hóa. Đặc biệt, môi trường số còn tạo điều kiện để giảng viên xây dựng thương hiệu cá nhân, khẳng định uy tín chuyên môn thông qua việc công bố các bài giảng chất lượng, chia sẻ nghiên cứu khoa học trên các diễn đàn học thuật quốc tế. Quan trọng hơn, năng lực số mở ra không gian hợp tác học thuật không biên giới. Giảng viên có thể dễ dàng kết nối, trao đổi chuyên môn với đồng nghiệp và các nhà khoa học hàng đầu thế giới thông qua các hội thảo trực tuyến, diễn đàn khoa học số hay các dự án nghiên cứu xuyên quốc gia. Sự kết nối này không chỉ nâng cao năng lực chuyên môn mà còn tạo cơ hội để giảng viên Việt Nam hội nhập sâu rộng vào cộng đồng học thuật toàn cầu, từ đó nâng cao vị thế và uy tín khoa học. Các nền tảng như ResearchGate, Academia.edu hay Google Scholar trở thành công cụ đắc lực giúp giảng viên quảng bá nghiên cứu, tăng chỉ số trích dẫn và mở rộng mạng lưới hợp tác quốc tế. Trên thực tế, nhiều giảng viên trẻ đã khẳng định được vị thế nhờ tận dụng hiệu quả các công cụ số. Họ trở thành những "giáo sư trực tuyến" với hàng nghìn học viên, những nhà nghiên cứu có tầm ảnh hưởng trong cộng đồng học thuật quốc tế, hay những chuyên gia tư vấn được săn đón nhờ khả năng chia sẻ tri thức số hiệu quả. Điều này không chỉ mang lại lợi ích cá nhân mà còn góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại học, tạo ra hệ sinh thái học thuật mở, kết nối và phát triển bền vững. Như vậy, nâng cao năng lực số thực sự là chìa khóa giúp giảng viên trẻ vượt khỏi giới hạn của giảng đường truyền thống, mở rộng phạm vi ảnh hưởng, nâng cao năng lực chuyên môn và khẳng định uy tín khoa học trong môi trường học thuật toàn cầu. Đây không chỉ là xu thế tất yếu mà còn là yêu cầu cấp thiết để xây dựng đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu của giáo dục đại học trong kỷ nguyên số.
Chuyển đổi số trong giáo dục nói chung và các trường đại học nói riêng có vai trò then chốt trong sự phát triển của đất nước. Nâng cao năng lực số cho giảng viên trẻ là yêu cầu tất yếu đáp ứng quá trình đẩy mạnh CĐStại các trường đại học ở Việt Nam hiện nay. Giảng viên trẻ đóng vai trò quan trọng nhờ khả năng thích ứng nhanh, nhưng cần được hỗ trợ từ nhà trường và các chính sách đồng bộ của Nhà nước để phát huy tối đa tiềm năng. Chính vì vậy, việc nâng cao năng lực số cho giảng viên trẻ không chỉ giúp nâng cao chất lượng giảng dạy mà còn đáp ứng yêu cầu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Thái Phi - Ngọ Thị Vân - Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng
Tài liệu tham khảo
- 1. Ban Cán sự đảng Bộ nội vụ, Nghị quyết ban hành về CĐS số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, số 21-NQ/BCSĐ, ngày 28/7/2022, Hà Nội, 2022.
- 2. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và CĐS quốc gia, số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024, Hà Nội, 2024.
- 3. Bộ Chính trị, Nghị quyết về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc CMCN lần thứ tư, số 52-NQ/TW, ngày 27/9/2019, Hà Nội, 2019.
- 4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quyết định ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Chiến lược An toàn, An ninh mạng quốc gia, chủ động ứng phó với các thách thức từ không gian mạng đến năm 2025, tầm nhìn 2030, số 4241/QĐ-BGDĐT, ngày 11/12/2023, Hà Nội, 2023.
- 5. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quyết định điều chỉnh, bổ sung danh mục nhiệm vụ kèm theo Quyết định số 1282/QĐ-BGDĐT ngày 10/2/2022 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Kế hoạch tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và CĐStrong giáo dục và đào tạo giai đoạn 2022-2025 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, số 100/QĐ-BGDĐT, ngày 08/01/2024, Hà Nội, 2024.
- 6. Chính phủ, Chỉ thị về việc nâng cao chất lượng đào tạo nhân lực trình độ cao, số 03/CT-TTg, ngày 11/5/2022, Hà Nội, 2022.
- 7. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định ban hành "Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030", số 569/QĐ-TTg, ngày 11/5/2022, Hà Nội, 2022.