Tăng cường tuyên truyền, giáo dục cho thanh niên về đường lối đổi mới của Đảng, tạo cơ sở vững chắc và sắc bén để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch trong bối cảnh mới

Thứ tư, 04/10/2023 - 13:05

NCKH - Tóm tắt: Hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đất nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị không ngừng xuyên tạc, phủ nhận những thành quả của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Nhưng thực tế đã chứng minh cả về lý luận lẫn thực tiễn rằng, đường lối đổi mới của Đảng đã đáp ứng nguyện vọng của nhân dân và phù hợp với xu thế của thời đại. Qua hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, đường lối đổi mới không ngừng được bổ sung, phát triển, và hệ thống lý luận về đường lối đổi mới của Đảng ta chính là những luận cứ khoa học, sắc bén để đấu tranh phản bác các quan điểm, sai trái của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Vì vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay là cần đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến nội dung cơ bản của đường lối đổi mới đến mọi tầng lớp nhân dân, trong đó có lực lượng đông đảo đoàn viên, thanh niên; từ đó, trang bị cho đoàn viên, thanh niên đủ cơ sở lý luận, “vũ khí lý luận sắc bén” để họ không bị lung lay, dao động, mơ hồ trước những đòn tấn công đầy tinh vi, thâm độc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trên mặt trận tư tưởng hiện nay.

Từ khóa : thanh niên, tuyên truyền, quan điểm sai trái thù địch

1. Hệ thống lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới - Luận cứ sắc bén để đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch

Đường lối đổi mới được Đảng ta đề ra lần đầu tiên tại Đại hội VI (12-1986), sau đó được điều chỉnh, bổ sung, phát triển qua các kỳ Đại hội. Quan điểm đổi mới nhất quán của Đảng là: Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà làm cho những mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan điểm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.

Đường lối đổi mới đó được xác lập dựa trên lý luận đổi mới Việt Nam, là hệ mục tiêu, quan điểm, các quan hệ lớn mang tính quy luật xác lập mô hình phát triển Việt Nam trong thời kỳ mới, có ý nghĩa chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phấn đấu cho một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, thực hiện lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Lý luận đổi mới Việt Nam là sự bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện cụ thể Việt Nam thời  kỳ mới; sự sáng tạo lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bằng hình thức và phương pháp đổi mới, phù hợp quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn dân tộc và xu thế thời đại; trên cơ sở chung đúc những bài học thành công và thất bại của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực trong thế kỷ XX và kế thừa có chọn lọc và phê phán các thành tựu, giá trị phát triển của nhân loại.

Trải qua hơn 35 năm, đường lối đổi mới đã đưa đất nước ta đạt được nhiều thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử; trong đó, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới ngày càng hoàn thiện, trở thành cấu phần quan trọng trong hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, bổ sung nền tảng tư tưởng của Đảng trong giai đoạn đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước; cụ thể như sau:

Thứ nhất, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học vào công cuộc đổi mới, xác lập hệ giá trị của phát triển trong xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là đã định hình và phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đến năm 2045.

Lý luận về đường lối đổi mới là một bộ phận cấn thành hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Thực tiễn hơn 35 năm đổi mới chứng minh, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) chỉ ra rằng, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là “một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen” [1] . Trong quá trình đổi mới, Đảng đã xác định mô hình xã hội chủ nghĩa gồm 6 đặc trưng, rồi tiếp tục bổ sung, phát triển thành 8 đặc trưng, thể hiện những bước phát triển không ngừng trong nhận thức lý luận của Đảng về mô hình chủ nghĩa xã hội, cụ thể là: 1- Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; 2- Do nhân dân làm chủ; 3- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; 4- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 5- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; 6- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; 7- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; 8- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới [2] .

Thành tựu lý luận của Đảng ta trong nhận thức về mô hình chủ nghĩa xã hội không tách rời việc xác định hệ mục tiêu với những giá trị cơ bản, quan trọng nhất mà Việt Nam hướng tới là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, định hình, định hướng tầm nhìn phát triển đến năm 2045. Để thực hiện được hệ mục tiêu đó, Đảng ta đã chỉ ra yêu cầu nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn. Đó là: “Quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội” [3] .

Thứ hai, lý luận về vai trò, sứ mệnh của Đảng, công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng khoa học, đổi mới, nhằm bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Sự nghiệp đổi mới luôn gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng. Giữ vững và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng là điều kiện cơ bản nhất, then chốt nhất, tập trung nhất của việc kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà đất nước đạt được trong hơn 35 năm đổi mới xuất phát từ nguyên nhân hàng đầu là do sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng.

Trước hết, lý luận về xây dựng, chỉnh đốn Đảng được thể hiện ở việc Đảng ta luôn chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng từ khi thành lập, cũng như trong suốt hơn 35 năm đổi mới . Đảng xác định, xây dựng và chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ cơ bản, quan trọng, cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự tồn vong của Đảng và chế độ, sự phát triển bền vững của đất nước. Với ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt đó, kể từ khi ra đời đến nay, trong các văn kiện Đại hội Đảng, các hội nghị Trung ương và trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp cách mạng, xây dựng và chỉnh đốn Đảng là một nội dung trung tâm, vấn đề then chốt trong hoạt động và tổ chức của Đảng.

Lý luận về xây dựng, chỉnh đốn Đảng được thể hiện ở phát triển nhận thức về mối quan hệ giữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn liền hai mặt công tác này với nhau và với xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh . Lý luận về xây dựng, chỉnh đốn Đảng còn thể hiện ở sự phát triển nhận thức về cấu trúc công tác xây dựng Đảng . Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII rút ra 5 bài học kinh nghiệm; trong đó, bài học kinh nghiệm về xây dựng Đảng, hệ thống chính trị, nhấn mạnh: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ” [4] . Đây là sự phát triển nhận thức về cấu trúc công tác xây dựng Đảng.

Thứ ba, lý luận về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ngày càng được củng cố, phát triển nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu của đường lối đổi mới trong mỗi thời kỳ cách mạng.

Nhận thức về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có bước phát triển quan trọng. Khái niệm “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên được nêu ra tại Hội nghị Trung ương 2 khóa VII (ngày 29-11-1991) và tiếp tục được khẳng định cho đến nay.

Đảng xác định ngày càng rõ hơn bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng lãnh đạo.

Những nội dung về xây dựng nhà nước được hiến định trong Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện những bước tiến quan trọng của Đảng về quan điểm, nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Các nghị quyết hội nghị Trung ương khóa XI, khóa XII đã nhận thức và xác định rõ hơn các nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền; đồng thời, nhận thức rõ hơn các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội: 1- Nhà nước pháp quyền dựa trên nền tảng nhân dân là nguồn gốc, là chủ thể của quyền lực nhà nước; 2- Hiến pháp và pháp luật có vị trí và hiệu lực tối thượng không chỉ đối với xã hội mà còn đối với cả Nhà nước; 3- Quyền lực nhà nước được tổ chức thực hiện theo nguyên tắc thống nhất và có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tòa án - cơ quan thực hiện quyền tư pháp độc lập, nghiêm cấm mọi sự can thiệp và hoạt động xét xử của Tòa án; 4- Nhà nước tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; 5- Nhà nước tôn trọng và tuân thủ các cam kết quốc tế mà mình là thành viên; 6- Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và quá trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Thứ , lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế - ngày càng sáng tỏ, hoàn thiện.

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự đột phá trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng ta; là kết quả của một quá trình tìm tòi, thể nghiệm lâu dài, từ chưa đầy đủ đến ngày càng đầy đủ, hoàn thiện. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành trong thời kỳ Đổi mới bắt đầu từ Đại hội VI và được Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn. Đó là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [5] .

Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn liền với đặc trưng về kinh tế trong mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại, phát triển, cạnh tranh bình đẳng, hợp tác cùng phát triển theo pháp luật, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Nhà nước khuyến khích mọi người dân làm giàu hợp pháp. Phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác. Nhà nước phát triển hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội để bảo đảm công bằng và đời sống bền vững cho nhân dân.

Vượt qua những hạn chế, sai lầm của nền kinh tế kế hoạch hóa, quan liêu, bao cấp thời kỳ trước đổi mới, nhận thức lý luận về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự phát triển đầy sáng tạo, ngày càng hoàn thiện và trở thành đóng góp lý luận cơ bản và sâu sắc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới” [6] . “Thể thế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang dần được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập” [7] . Đường lối đổi mới kinh tế phù hợp với yêu cầu khách quan đã giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất xã hội, thúc đẩy nền kinh tế của nước ta tăng trưởng mạnh mẽ, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt.

Thứ năm, phát triển lý luận về văn hóa, xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ và môi trường, tập trung xây dựng hệ giá trị, văn hóa con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế.

Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một đặc trưng của mô hình xã hội chủ nghĩa được Đảng ta xác định từ Cương lĩnh năm 1991, một mục tiêu đặt ra để xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam. Nhận thức lý luận của Đảng về văn hóa là sự phát triển nhất quán từ luận điểm về các đặc trưng dân tộc, khoa học, đại chúng được đặt ra trong Đề cương văn hóa từ năm 1943. Trong quá trình cách mạng, nhất là trong Đổi mới, Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của văn hóa trong đời sống xã hội và trong xây dựng, phát triển đất nước. Văn hóa được xác định là “nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển” [8] . Mục tiêu phát triển văn hóa chính là nhằm xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì hạnh phúc và lợi ích chân chính của nhân dân, vì sự phát triển tự do và toàn diện của con người.

Trong tiến trình đổi mới, nhận thức lý luận của Đảng về con người được bổ sung, hoàn thiện sâu sắc hơn, đầy đủ hơn. Con người được Đảng xác định là “trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”, là mục tiêu quyết định duy nhất của phát triển, đồng thời cũng là động lực quan trọng nhất của phát triển. Con người có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó với văn hóa; sự phát triển văn hóa không ngoài mục đích hoàn thiện nhân cách, nâng cao phẩm giá, thúc đẩy sự phát triển toàn diện chân, thiện, mỹ và bảo đảm hạnh phúc của con người.

Đảng đã phát triển những cơ sở lý luận cho việc giải quyết những vấn đề xã hội. Xuất phát từ nhận thức về mục tiêu của cuộc cách mạng và bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng chủ trương “thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách” trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Yêu cầu “tiến bộ và công bằng” được triển khai bao quát toàn diện các lĩnh vực xã hội, từ giáo dục, y tế, gia đình, môi trường, xóa đói giảm nghèo, đến an sinh, phúc lợi xã hội, thể dục thể thao, văn hóa giải trí, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm quyền con người, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội. Nhà nước giữ vai trò trung tâm, đồng thời động viên mọi nguồn lực xã hội cùng tham gia việc giải quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo cho mọi người dân được thụ hưởng xứng đáng, công bằng những thành tựu của phát triển và đổi mới, tạo lập một xã hội văn minh, hài hòa, mang lại hạnh phúc ngày càng nhiều hơn cho nhân dân.

Thứ sáu, lý luận về quốc phòng, an ninh và đối ngoại, bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc; hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ thống lý luận về đường lối đổi mới của Đảng ta.

Trong thời kỳ chiến tranh giải phóng dân tộc vì độc lập, tự do và thống nhất cho đất nước, hệ thống lý luận của Đảng về quân sự, an ninh đã đã được phát triển phong phú, là cơ sở cho việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng với 3 thứ quân, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân toàn diện, làm nên những chiến công hiển hách, “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”. Trong điều kiện mới, Đảng ta đã có những đổi mới, sáng tạo trong nhận thức lý luận về tính chất, đặc điểm của hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa gìn an ninh quốc gia. Trên cơ sở lý luận ấy, Đảng xác định việc củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, trong đó mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh.

Về đối ngoại, đường lối nhất quán của Đảng ta là độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, vì lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Đổi mới tư duy đối ngoại là sự đổi mới trong đánh giá tình hình quốc tế, trong hoạch định và triển khai đường lối đối ngoại để từ đó bảo vệ và thúc đẩy hiệu quả hơn lợi ích quốc gia - dân tộc. Trong điều kiện thế giới đã có nhiều thay đổi, sự phát triển mới trong đường lối đối ngoại của Đảng ta chính là chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

2. Tăng cường tuyên truyền, thu hút thanh niên tích cực tìm hiểu, nắm vững nội dung đường lối đổi mới, tạo nền tảng lý luận, tham gia đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch trong bối cảnh mới - Một số nhiệm vụ chủ yếu

Để đoàn viên, thanh niên vừa tỉnh táo không rơi vào âm mưu “diễn biến hòa bình”, vừa có đủ tri thức lý luận, bản lĩnh chính trị, tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cần tăng cường tuyên truyền để họ hiểu rõ: Việt Nam kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội không phải là “sai lầm”, “đi theo vết xe đổ của Liên Xô”, mà là sự lựa chọn, kiên định đúng đắn của lịch sử dân tộc, của nhân dân ta, của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước hơn 35 năm qua là bằng chứng xác thực nhất bác bỏ những âm mưu đen tối, thâm độc của các thế lực thù địch, phản động muốn Đảng, dân tộc ta từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Thực tiễn phát triển đất nước hơn 35 năm đổi mới đã cho thấy, từ một đất nước nghèo nàn, có cơ sở vật chất - kỹ thuật, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội lạc hậu, trình độ thấp, đến nay, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; mọi mặt đời sống của nhân dân được cải thiện; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có bước đột phá; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh, độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử đó khẳng định một chân lý: Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Cần tuyên truyền, phổ biến, giáo dục để đoàn viên, thanh niên nắm vững: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam khác nhà nước pháp quyền tư sản ở chỗ, pháp quyền dưới chế độ tư bản về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản. Trong khi đó, bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người. Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích; mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.

Đổi mới mạnh mẽ phương thức tuyên truyền , chú trọng sử dụng công nghệ thông tin, mạng internet, mạng xã hội để gia tăng tính hấp dẫn, kịp thời cho thanh niên. Các chủ thể tuyên truyền nội dung đường lối đổi mới của Đảng cần sáng tạo, tìm tòi những hình thức tuyên truyền sao cho sinh động, hấp dẫn, ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, tránh khô khan, giáo điều, cứng nhắc, vì thanh niên là những người trẻ tuổi, luôn nhạy bén với cái mới, thích khám phá, tìm tòi những điều mới lạ, nhất là trên không gian mạng.

Bên cạnh những phương pháp tuyên truyền truyền thống, cần tăng cường đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, giáo dục thông qua các nền tảng công nghệ số như xây dựng Cổng thông tin điện tử học tập chính trị cho đoàn viên thanh niên; tổ chức các hội nghị trực tuyến học tập lý luận chính trị, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tăng cường tổ chức các cuộc thi trực tuyến tìm hiểu về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tìm hiểu về Đảng Cộng sản Việt Nam, về Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, truyền thống lịch sử dân tộc nhằm thu hút lượng đoàn viên, thanh niên tham gia

Cấp ủy, chính quyền, Đoàn thanh niên các cấp tổ chức các hoạt động thường xuyên để thanh niên có cơ hội tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, như: Mở các diễn đàn trao đổi, tập huấn, hội nghị, hội thảo chuyên đề, tham quan các địa chỉ đỏ, cuộc thi, văn nghệ, thể thao, tình nguyện..., giúp thanh niên hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đóng góp hiệu quả vào việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Chú trọng mời các chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, nhà hoạt động thực tiễn nhiều kinh nghiệm đến thuyết trình, trao đổi nhiều hơn với thanh niên về những vấn đề lý luận căn cốt về đường lối đổi mới của Đảng ta, để thanh niên thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Đoàn, sự quản lý của Nhà nước, không bị “mờ mắt” bởi những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật của các thế lực thù địch, phản động trên không gian mạng và được trang bị vũ khí lý luận sắc bén, đủ sức nhận diện rõ bản chất, đấu tranh, bác bỏ các quan điểm sai trái thù địch trong bối cảnh mới.

Để phát huy tối đa vai trò của thanh niên trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, cần tạo ra một môi trường sống, học tập, làm việc lành mạnh , hạn chế tối đa tác động tiêu cực của các luồng thông tin xấu, độc trên internet, mạng xã hội; đồng thời, tạo thêm nhiều “sân chơi” lành mạnh, bổ ích, thu hút đông đảo đoàn viên, thanh niên tham gia.

Bồi dưỡng thế hệ trẻ không chỉ đảm bảo sự phát triển về thể chất mà còn đảm bảo sự phát triển tư tưởng, văn hóa và đạo đức. Đặc biệt, ở đây cần chú trọng đến việc xây dựng, củng cố bản lĩnh chính trị cho thanh niên thông qua các giải pháp nâng cao nhận thức và rèn luyện bằng phong trào và hành động để tạo sức đề kháng tự thân cho thanh niên trước những tiêu cực xã hội, sự chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch; qua đó, giúp thanh niên nhạy bén hơn với những vấn đề chính trị - xã hội, góp phần tích cực vào đấu tranh phản bác những thông tin và luận điệu sai trái trên không gian mạng, thể hiện được vai trò của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

PGS, TS Nguyễn Chí Hiếu

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 70

2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 70

3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 333 - 334

4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 95

5. Văn kiện Hội nghị Trung ương 5 ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2017, tr. 30

6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 59 – 60

7. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 31

8. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr. 75 - 76


[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI , Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 70

[2] Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd , tr. 70

[3] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 333 - 334

[4] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd , t. I, tr. 95

[5] Văn kiện Hội nghị Trung ương 5 ương khóa XII , Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2017, tr. 30

[6] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd , t. I, tr. 59 - 60

[7] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd , t. II, tr. 31

[8] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd , tr. 75 - 76

Vụ trưởng, Trưởng ban Xây dựng Đảng, Tạp chí Cộng sản