
Ảnh minh họa
Cụ thể, Tỉnh đã thành lập và kiện toàn Ban Chỉ đạo các Chương trình Mục tiêu quốc gia (CTMTQG) giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021–2025, đồng thời xây dựng quy chế hoạt động cho Ban Chỉ đạo và Văn phòng Điều phối chương trình. Ở cấp huyện và xã cũng đã thành lập Ban Chỉ đạo, Ban Quản lý dự án, thiết lập quy chế và phân công rõ chức năng – nhiệm vụ. Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh ban hành đầy đủ văn bản chỉ đạo, cơ chế, chính sách tổ chức thực hiện chương trình; trong quá trình thực hiện đã kịp thời bổ sung, điều chỉnh và tăng cường kiểm tra, giám sát – đánh giá.
Giai đoạn 2021–2025, tổng vốn phân bổ cho CTMTQG giảm nghèo bền vững tại Thái Nguyên là hơn 1.167 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương là khoảng 1.113 tỷ đồng (485 tỷ đồng vốn đầu tư phát triển và 628 tỷ đồng vốn sự nghiệp) còn ngân sách địa phương là khoảng 53 tỷ đồng (16 tỷ đồng vốn đầu tư phát triển và 37 tỷ đồng vốn sự nghiệp). Tính đến ngày 30/6/2025, đã giải ngân 872 tỷ đồng (khoảng 74,74% kế hoạch) — trong đó ngân sách Trung ương khoảng 833 tỷ đồng và địa phương khoảng 39 tỷ đồng. Việc phân bổ vốn tuân thủ nguyên tắc, có điều chỉnh phù hợp với thực tế; đồng thời việc huy động, lồng ghép nguồn lực từ Nhà nước và các nguồn hợp pháp khác được thực hiện đồng bộ.
Từ nguồn vốn phân bổ, tỉnh đã tập trung vào các dự án thành phần của chương trình. Ví dụ: Dự án 1 – Hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế-xã hội các huyện nghèo – tổng vốn phân bổ khoảng 441 tỷ đồng, giải ngân khoảng 387 tỷ đồng. Cụ thể, tỉnh đã thực hiện 55 công trình (33 công trình đường giao thông, 12 công trình trường học đạt chuẩn quốc gia, 3 nhà văn hóa, 5 thủy lợi, 2 trạm y tế chuẩn quốc gia); đồng thời duy tu, bảo dưỡng 58 công trình. Tổng số hộ hưởng lợi là 13.387 hộ, gồm 8.342 hộ nghèo, 2.038 hộ cận nghèo và 3.007 hộ dân tộc thiểu số. Dự kiến trong năm 2025 sẽ hỗ trợ thêm 23 công trình (1 công trình giao thông mới, 22 công trình chuyển tiếp gồm đường giao thông, giáo dục, thủy lợi, văn hóa, y tế) và duy tu 33 công trình. Những công trình này đáp ứng nhu cầu người dân, hỗ trợ sản xuất, lưu thông dịch vụ, tạo điều kiện thuận lợi để người dân tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản — góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và thúc đẩy giảm nghèo bền vững.
Nhờ sự vào cuộc của toàn hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở, chương trình đã đạt nhiều kết quả đáng chú ý. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều tại đầu năm 2022 là 10,29%; đến cuối năm 2024, đã giảm còn 5,46% — giảm 4,83% trong giai đoạn này, bình quân mỗi năm giảm khoảng 1,61% và đã đạt vượt so với kế hoạch. Ở các vùng thuộc tỉnh trước đây (tỉnh Bắc Kạn cũ): đầu kỳ tỷ lệ hộ nghèo đa chiều là 27,37%; đến cuối năm 2024 còn 19,46% — giảm bình quân 2,63%/năm, vượt mục tiêu giảm 2-2,5%/năm. Ở vùng Thái Nguyên (cũ): đầu kỳ là 6,14%; cuối năm 2024 còn 2,04% — giảm bình quân 1,37%/năm, vượt mục tiêu giảm 1% trở lên. Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số đầu kỳ (2022) là 19,87%; cuối năm 2024 là 11,20% — giảm 8,67% (bình quân mỗi năm giảm 2,89%). Tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo đầu kỳ là 53,44%; cuối năm 2024 còn 42,44% — giảm 11% (bình quân mỗi năm 3,67%).
Những kết quả này đã góp phần đảm bảo an sinh xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo bền vững. Người nghèo dần cải thiện điều kiện sống, tiếp cận hỗ trợ của Nhà nước tốt hơn, có việc làm, thu nhập ổn định và được hưởng các nhu cầu thiết yếu như y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin. Đồng thời, y thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và người dân trong công tác giảm nghèo đã được nâng cao; nhiều hộ nghèo tự nguyện đăng ký thoát nghèo bền vững. Đáng chú ý, nhiều xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số trước đây thiếu điện, thiếu nước, giao thông khó khăn nay đã có cơ sở hạ tầng tương đối đồng bộ: đường bê tông đến thôn bản, học sinh có điều kiện học tốt hơn, người dân tiếp cận y tế thuận lợi hơn. Cùng với đó, việc phát triển các khu công nghiệp lớn như Sông Công, Yên Bình,... và thu hút các doanh nghiệp FDI đã tạo bước chuyển rõ nét trong giải quyết việc làm; hàng chục nghìn lao động địa phương có công việc ổn định, thu nhập tốt hơn, góp phần trực tiếp vào giảm nghèo bền vững.