Thanh niên Việt Nam học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về tư duy độc lập, tự chủ và ý chí tự lực, tự cường

Thứ hai, 19/06/2023 - 11:57

NCKH - Bài viết luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh về tư duy độc lập, tự chủ và ý chí tự lực, tự cường. Từ đó, đưa ra ý nghĩa học tập để thanh niên Việt Nam có thể vận dụng vào trong quá trình học tập và rèn luyện, nâng cao vai trò của bản thân để góp phần xây dựng đất nước ta trong giai đoạn mới

Từ khóa: Hồ Chí Minh; học tập và làm theo, tư duy độc lập, tự chủ; ý chí tự lực, tự cường; thanh niên Việt Nam.

1. Đặt vấn đề

Hồ Chí Minh từng cho rằng, “Một năm khởi đầu từ mùa xuân, một đời khởi đầu từ tuổi trẻ, tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, tr 194). Đối với Người, thanh niên có một vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng. Tuổi trẻ là khoảng thời gian tươi đẹp, có nhiều “nhựa sống” và nhiệt huyết, tư duy nhạy bén và nếu đào tạo, huấn luyện tốt, đây sẽ là đội ngũ kế thừa sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc, có nhiều đóng góp to lớn để tạo những sức bật cho xã hội và đất nước.

Ngày 19/5/2023, kỷ niệm 133 năm ngày sinh của Hồ Chí Minh, là dịp để người dân Việt Nam nói chung và lớp thanh niên nói riêng nghiên cứu và nhắc nhớ những lời dạy quý báu mà Người đã dành cả tâm huyết của cuộc đời để thực hiện và di huấn lại cho nhân dân và đất nước ta. Đây cũng là dịp để tăng cường thực hiện theo Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; tiếp tục thực hiện Kế hoạch số 03-KH/TW ngày 25/7/2016 của Ban Bí thư Trung Đảng về thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và 16-HD/BTGTW của Ban chấp hành tuyên giáo trung ương, đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thanh niên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay có nhiều cơ hội để lập thân, lập nghiệp bởi lợi thế về những chủ trương, đường lối rộng mở của Đảng và Nhà nước, một môi trường năng động và hội nhập. Tuy nhiên, để có thể vững bước tạo dựng sự nghiệp và cống hiến cho đất nước, đòi hỏi họ phải có nhiều tố chất và năng lực vững vàng. Hồ Chí Minh từng nhận định: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên muốn làm người chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải ra làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, tr.216). Vì thế, trong di sản Người để lại, những lời dạy về thanh niên và tấm gương về tư duy độc lập, tự chủ, tư tưởng về về ý chí tự lực, tự cường của Hồ Chí Minh là một giá trị quan trọng giúp thanh niên có thể học tập và vận dụng nhằm phát huy vai trò tiên phong trong giai đoạn mới của đất nước.

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Tư duy độc lập, tự chủ của Hồ Chí Minh

Quê hương, gia đình của Hồ Chí Minh trong giai đoạn lịch sử có nhiều biến động bởi giặc ngoại xâm đã tác động rất lớn đến tư duy và suy nghĩ và ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường của Người. Tiếp thu những truyền thống của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại cũng góp phần để nhìn nhận và đánh giá thời cuộc. Nhận thức được tình cảnh đất nước và dân tộc đang nguy khốn, tiếp cận được tư tưởng mới mẽ, cụ thể là “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, tr.461). Như vậy, khi tiếp cận tư tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái, Hồ Chí Minh đã không vội tin tưởng tuyệt đối mà muốn xem điều gì ẩn sau những chữ ấy. Tiếp thu tư tưởng Nho giáo, Hồ Chí Minh cũng thấy được ưu điểm rất nổi bật của học thuyết này, tuy nhiên, vẫn đánh giá được điểm hạn chế để có giải pháp khắc phục trong tương lai. Điểm giao thoa tuyệt vời trong tư tưởng Hồ Chí Minh với các tôn giáo là điều mong muốn có một xã hội tốt đẹp cho loài người, nhưng sự độc lập trong tư duy giúp Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng một xã hội lý tưởng ấy ở hiện thực thay vì “ở thế giới bên kia” giống như các tôn giáo khác.

Cụ Phan Bội Châu khi thực hiện phong trào Đông Du cũng từng có lời đề nghị Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh sang Nhật du học, tuy nhiên, khi phân tích và nhận định tình hình thực tế, Người đã từ chối vì sự không khả thi trong chiều hướng cách mạng này. Khi đề cập đến tư duy độc lập, tự chủ của Hồ Chí Minh thì sự kiện ngày 5/6/1911, Người ra đi tìm đường cứu nước trên chiếc tàu hàng hải Amiral Latouche Tréville hướng sang Phương Tây để xem Pháp và các nước khác làm thế nào để về giúp đồng bào. Đây là hướng phát triển cách mạng theo khía cạnh mới mẽ so với các con đường cách mạng theo khuynh hướng phong kiến hay khuynh hướng dân chủ tư sản trước đây. Hành trình khảo sát các cuộc cách mạng trên thế giới, Người cũng đã rút ra kết luận: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức. Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều ấy” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, tr.296). Đây cũng chính là lý do để giải thích cho việc, vì sao sau 9 năm hoạt động, trãi nghiệm ở nước ngoài, Hồ Chí Minh – Nguyễn Ái Quốc mới lựa chọn được con đường cách mạng vô sản – con đường cách mạng triệt để nhất, cách mạng nhất và khoa học nhất nhằm đem đến độc lập, tự do, ấm no hạnh phúc cho toàn dân.

Khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, điểm nổi bật rõ rệt nhất đó chính là sự tiếp thu, lĩnh hội và vận dụng một cách sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Sự chủ động này thể hiện ở nhiều khía cạnh giải quyết mối quan hệ dân tộc và giai cấp một cách sáng tạo, đã chứng minh cho câu nói, “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, tr.230). Vấn đề về cách mạng giải phóng dân tộc cũng thể hiện rất rõ lập trường cách mạng, nền độc lập dân tộc Người tìm kiếm cũng chính là một nền độc lập thực sự, hoàn toàn và triệt để.

Trong cuộc chiến chống lại kẻ thù xâm lược, chính sức mạnh đoàn kết toàn dân, sức mạnh từ chính nhận thức về tầm quan trọng của điểm mấu chốt cần thiết sau khi tìm được con đường cứu nước. Người nói, “Bây giờ còn một điểm rất quan trọng, cũng là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt: Đó là đoàn kết” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, tr.589). Sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc là vốn quý, tuy nhiên, đã bị giặt cắt đứt sợi chỉ đỏ đoàn kết, nhằm chia để trị. Tác phẩm Đường Kách Mệnh chứa đựng ý nghĩa to lớn, tạo những tiền đề lý luận cho cách mạng Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc có sự chủ động trong việc tích cực truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin, những lý luận về cách mạng vô sản và về đạo đức của người cách mạng, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, tờ báo Thanh Niên đã được ra đời dưới sự lãnh chỉ đạo của Người. Như vậy có thể thấy, ngoài khả năng độc lập, tự chủ trong hoạt động và hành động cách mạng, ở Hồ Chí Minh có một năng lực rất lớn về khả năng phân tích thực tiễn, đồng thời giải quyết các vấn đề cách mạng từ chính thực tiễn đặt ra.

Trong giai đoạn 3 tổ chức Cộng sản trong nước có những bất đồng nội bộ, Người đã chủ động gửi báo cáo về Quốc tế Cộng sản và triệu tập đại diện của 3 tổ chức (An Nam cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản dảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn) sang Trung Quốc dự họp nhằm giải quyết tình hình đặt ra trong thực tiển giai đoạn ấy. Người nhận thấy, vai trò của Đảng đối với cách mạng là rất cần thiết, “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, tr.289). Quá trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã có tư duy sáng tạo khi kết hợp phong trào yêu nước Việt Nam vào công thức ra đời của Đảng. Đây là một luận điểm đáng được ghi nhận bởi tính phù hợp với điều kiện của quốc gia thuộc địa, tận dụng và phát huy được sức mạnh toàn dân tộc vào công cuộc chung của đất nước.

Sự sáng tạo trong luận điểm cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa hoàn toàn có thể chủ động, sáng tạo và giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Luận điểm này về sau được thực tiễn và giới nghiên cứu xem đây là đóng góp quan trọng cho sự nghiệp giải phóng nhân loại. Tư duy độc lập so với quan điểm của Quốc tế Cộng sản vừa là bước đột phá nhưng cũng gặp rất khăn trong vấn đề về quan điểm cách mạng lúc bấy giờ. Tuy nhiên, sự kiên định trong lập trường đúng đắn này đã tạo bước đột phá lớn cho cách mạng Việt Nam thành công vang dội vào Cách mạng 8/1945, tạo nên tiếng vang lớn, mở ra kỷ nguyên mới cho xã hội loài người.

Ngoài ra, trong giai đoạn cách mạng mới (sau 1954), nước ta có rất nhiều thay đổi về cục diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Hồ Chí Minh cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam có sự độc lập, tự chủ trong việc đưa ra đường lối ngoại giao và đấu tranh chống Mỹ, xây dựng đất nước trong bối cảnh bị chia cắt. Chính nhờ tư duy độc lập, tự chủ, chúng ta được sự ủng hộ và giúp đỡ rất mạnh mẽ từ bên ngoài, cả về vật chất lẫn tin thần cách mạng. Song song đó, sự tích cực chủ động trong việc nghiên cứu vũ khí, đưa người đi học tập ở Liên Xô, chuẩn bị về hậu phương, tăng gia sản xuất, với quan điểm “Nước Việt Nam là một, từ Nam đến Bắc chung một tiếng nói, một lịch sử, một văn hóa và một nền kinh tế. Nhân dân Việt Nam đã hy sinh nhiều xương máu để đấu tranh cho tự do độc lập, quyết không một lực lượng nào ngăn cản được sự nghiệp thống nhất Tổ quốc của mình” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11, tr.308) cũng góp phần đem đến ngày Việt Nam ta được độc lập và thống nhất hoàn toàn.

2.2. Nội dung tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường

Câu chuyện “Hai bàn tay” trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Người cũng lường trước được những vất vả, khó khăn, ví như lúc đau ốm. Vì thế, mong muốn người bạn đi cùng. Tuy nhiên, sự dũng cảm và chí lớn đã thôi thúc Người ra đi cứu nước không có bạn đồng hành. Theo nghiên cứu, Người đã 30 quốc gia, 4 châu lục và trong hành trình ấy, 2 từ gian khổ là không đủ. Người đã làm qua rất nhiều nghề gian khổ khác nhau như: phụ bếp, cào tuyết, bồi bàn,… Chính ý chí vượt khó đã giúp Người trãi qua 30 năm gian khó để hoạt động cách mạng ở nước ngoài. Cần nhận thức về bối cảnh thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, rất khó khăn phức tạp và đan xen nhiều mẫu thuẩn trong xã hội. Hồ Chí Minh đã phải cố gắng vững bước, khéo léo cải trang và giữ bí mật để tránh việc bị bắt và tù đài.

Người cũng có nhiều hình thức đấu tranh khác nhau, ngày 18/6/1919, Người đã thay mặt những người Việt Nam yêu nước để gửi bản Yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội nghị Vecxay nhằm đòi quyền tự do, dân chủ cho nhân dân ta. Tuy nhiên, những yêu cầu này đã không được thông qua. Từ đây, Hồ Chí Minh đã có nhận định, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc phải dựa vào chính sức mạnh dân tộc mình. Như vậy, tinh thần và ý chí tự lực, tự cường trong thực tiễn hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh thể hiện rất rõ ràng trong từng lời nói, việc làm của mình trong quá trình hoạt động cách mạng.

Có thể nói, ý chí tự lực, tự cường ở Hồ Chí Minh là nhận thức rõ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước. Vì thế, đối với cách mạng của Việt Nam, Người nhiều lần nhấn mạnh đến việc phát huy sức mạnh nội sinh của dân tộc có được là từ tinh thần yêu nước và đại đoàn kết toàn dân – đây là động lực lớn để giải phóng dân tộc. Người nhiều lần nhắc nhở “Kháng chiến nhất định thắng lợi, nhưng phải trường kỳ và gian khổ, phải tự lực cánh sinh” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, tr.386); “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, tr.445). Cụm từ tự lực cánh sinh được nhắc lại rất nhiều lần trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thể hiện ở khía cạnh cách mạng, khía cạnh về kinh tế và cả văn hóa, xã hội. Muốn người ta giúp cho thì trước hết phải tự giúp mình, đây được xem là tôn chỉ hoạt động mà Hồ Chí Minh đã định hướng cho cách mạng Việt Nam. Nội lực của dân tộc còn là phải đại đoàn kết toàn dân, Người khẳng định, đoàn kết sẽ tạo nên sức mạnh lớn lao bởi chúng ta đã có một lực lượng cực kỳ to lớn, vững chắc, lực lượng đại đoàn kết của toàn dân, “Nhờ truyền thống và lực lượng ấy, thêm vào cái chí khí trẻ trung của chúng ta, chúng ta đã vượt qua nhiều bước gian nan và tranh được nhiều thắng lợi: chúng ta đã đánh tan giặc đói, chúng ta đã đánh tan giặc dốt, chúng ta sẽ đánh tan giặc ngoại xâm” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, tr.546). Hiểu được sức mạnh của nhân dân và tầm quan trọng trong việc khôi phục và phát huy tinh thần đại đoàn kết của toàn dân, Người nhấn mạnh, “Đại đoàn kết: Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, tr.244). Yêu dân, tin dân, tin vào sức mạnh của tập thể cũng là một chân lý giá trị của mọi thời đại. “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 10, tr.453). Nhân dân chính là mục tiêu và động lực của cách mạng. Với truyền thống tương thân, tương ái, nhân nghĩa của đồng bào, Hồ Chí Minh đã đặt trọn niềm tin vào khả năng thắng lợi của cuộc đấu tranh gian khổ nhưng chắc chắn sẽ đi đến thắng lợi cuối cùng. Động viên sức chiến đấu của tinh thần đại đoàn kết toàn dân, tinh thần hăng hái và bền bỉ của đồng bào, với sự dũng cảm của bộ đội, với lòng kiên quyết của cách mạng thì nhất định vượt qua tất cả mọi khó khăn để tranh lấy hoàn toàn thắng lợi. Đây cũng chính là khía cạnh thể hiện sự kiên định là quyết tâm bảo vệ và giữ vững nền độc lập dân tộc.

Bên cạnh đó, ý chí tự lực, tự cường của dân tộc cũng phải gắn với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Với Người, dựa vào chính sức mạnh của dân tộc mình nhưng đồng thời cũng tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của bè bạn năm châu. Người nói, “Nhân dân Việt Nam chúng tôi dựa vào sức mình là chính, đồng thời đánh giá cao sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, sự ủng hộ mạnh mẽ của tất cả các nước và các dân tộc yêu chuộng hoà bình trên thế giới” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 15, tr.84). Một vị lãnh tụ cách mạng có tư tưởng kết nối và hướng ra bên ngoài để nối dài cánh tay sức mạnh của cách mạng, là một khía cạnh rất tài tình, nó phù hợp với xu hướng của dân tộc và thời đại. Không tự cô lập mình, biết hội nhập vào công cuộc giải phóng dân tộc, giai cấp và nhân loại. Hồ Chí Minh đã có nhiều hoạt động để chứng minh cho sự cần thiết này, Người nói, “ Dựa vào sức mình là chính, đồng thời được sự ủng hộ của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em và các nước Á - Phi cùng nhân dân tiến bộ toàn thế giới, nhân dân Việt Nam chúng tôi nhất định sẽ đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 15, tr.125). Ý chí tự lực, tự cường thể hiện trong việc nhận thức rõ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, sẵn sáng giúp đỡ trên tinh thần hữu ái, Người khằng định “tinh thần quốc tế của nhân dân thế giới đối với ta ngày càng mặn mà. Tinh thần quốc tế ấy làm cho ta càng kiên quyết kháng chiến cho đến hoàn toàn thắng lợi” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, tr.315). Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, cụm từ quốc tế trong sáng, tinh thần quốc tế được nhắc đến nhiều lần. Điều này thể hiện rõ ràng tư duy ngoại giao nhân dân của Hồ Chí Minh được hình thành từ rất sớm và bền rễ trong suốt tiến trình cách mạng. Nhờ đó, chúng ta có mối quan hệ hữu nghị với các quốc gia xã hội chủ nghĩa, với phong trào giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và với lực lượng yêu chuộng hòa bình khắp nơi trên thế giới lúc bấy giờ. Người khẳng định, “ta phải củng cố tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước bạn, nhân dân Pháp, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, tr.70) , nhờ thế, chúng ta nhận được sự ủng hộ tinh thần và vật chất từ Liên Xô, Trung Quốc, nhiều nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu,… rất nhiều cuộc mít tin, biểu tình của nhân dân ở Pháp, Mỹ, Nhật, Đức,… phản đối chiến tranh mà Pháp, Mỹ gây ra cho Việt Nam.

Ở Hồ Chí Minh, tư tưởng đoàn kết quốc tế “rằng đây bốn bể là nhà, vàng đen trắng đỏ đều là anh em” là một bước tiến bộ, bởi sự kỳ thị về màu da và chủng tộc vẫn hiện diện ở khắp nơi thời gian đó, trong đó có những nước tự nhận là văn minh tiến bộ. Người cũng có những luận điểm sáng tạo để bổ sung vào cuộc đấu tranh ở các nước, trong đó, “chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 2, tr.138). Vai trò và trách nhiệm của tình bằng hữu quốc tế, Hồ Chí Minh luôn tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nhưng cũng rất trăn trỡ vì sự bất hoà lúc bấy giờ của các đảng trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Do đó, trong Di Chúc, Người căn dặn “Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 15, tr.623). Có lý, có tình là nguyên tắt cốt lõi, đồng thời trong tư tường ngoại ngoai, Người yêu cầu phải giữ được thế độc lập, tự chủ của đất nước. Có thể khẳng định, ý chí tự lực, tự cường trong đoàn kết quốc tế ở Hồ Chí Minh là không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài, có quan điểm độc lập trong quan hệ quốc tế.

2.3. Ý nghĩa học tập và vận dụng tinh thần độc lập tự chủ, ý chí tự lực tự cường theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đối với thanh niên trong giai đoạn hiện nay

Khi đề cập đến vị trí và vai trò của thanh niên, Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định thanh niên là lực lượng xung kích, là tương lai của dân tộc. Người nói, “Một năm khởi đầu từ mùa Xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, tr.194). Mùa xuân dân tộc được xanh tốt từ những cuộc đời tươi trẻ của mỗi thanh niên. Đó là triết lý trong chiều sâu tư tưởng của Người. Khi đề cập đến vai trò của thanh niên, Người luôn cho rằng đây là đội hậu duệ, đóng vai trò rất quan trọng trong việc kế thừa và phát huy những thành quả cách mạng. Do đó, Hồ Chí Minh từng nhận định: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên muốn làm người chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải ra làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó”. (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, tr.216). Trong giai đoạn hiện nay, vai trò của thanh niên Việt Nam chưa bao giờ giảm sút mà ngày càng được phát huy hơn. Họ là lực lượng trẻ, nhiều nhiệt hướng, sáng tạo và cơ hội tiếp cận với nền văn minh nhân loại một cách nhanh chóng. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là xu thế mới, rất năng động và đòi hỏi tư duy sáng tạo, nhạy bén trong việc tiếp thu và vận dụng. Đây lại là cơ hội cho Việt Nam phát triển đất nước và cũng chính là cơ hội để thanh niên Việt Nam có khả năng tạo nên sức bật mới. Nhớ về lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh với thanh niên phải, “Hăng hái, kiên quyết, không sợ khó, không sợ khổ. Phải siêng học, phải siêng làm, phải tiết kiệm. Việc nên làm (như ủng hộ kháng chiến, tăng gia sản xuất) thì ta không chờ ai nhắc nhủ. Việc nên tránh (như tự tư tự lợi) thì ta không đợi ai ngăn ngừa” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, tr.194). Có thể khẳng định rằng, trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề thanh niên được định hướng toàn diện và sâu sắc. Nhắc nhở họ những tố chất cần có của một con người xã hội chủ nghĩa, có ý chí nghị lực, có phẩm chất đạo đức, có lập trường chính trị,… không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. là “những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 15, tr.612).Tiếp thu lời dạy ấy, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 khóa X, Đảng ta khẳng định: “Xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam giàu lòng yêu nước; tự cường dân tộc; kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” . Với mục tiêu phấn đấu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Xu hướng phát triển của thời đại đã và đang là động cơ tích cực để việc bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho tuổi trẻ Việt Nam là nhiệm vụ cấp thiết nhất. Để họ có được định hướng cho sự phát triển bản thân đúng với lý tưởng cách mạng, đúng với hệ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh. Tại phiên khai mạc Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Ông Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định thêm , “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân và khát vọng đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Vì thế,việc học tập học tập và vận dụng tinh thần độc lập tự chủ, ý chí tự lực, tự cường theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay đối với thanh niên là việc làm thiết thực và nhiều ý nghĩa.

Thanh niên Việt Nam hiện nay có nhiều cơ hội học tập, từ cấp phổ thông đến các trường nghề, cao đẳng, đại học, sau đại học,… có thể lựa chọn đi tu nghiệp, du học nước ngoài,... Đây là vốn quý, bởi chỉ có thông qua giáo dục mới tạo được sức bật cho cá nhân và đất nước. Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ vay vốn học tập, nhiều học bổng khuyến học, nhiều trường học ở các cấp được xây dựng khang trang, cơ sở vật chất cũng đảm bảo cho nhu cầu xã hội hóa giáo dục. Ngoài ra, thanh niên còn có nhiều sân chơi lành mạnh và bổ ích từ các hoạt động của Đoàn – Hội để rèn luyện tinh thần cống hiến, đoàn kết, sáng tạo,… từ đó bật lên được năng lực của bản thân.

Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và tạo mọi điều kiện để thanh niên học tập, rèn luyện để lập thanh, lập nghiệp. Cụ thể, Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành Chỉ thị số 42-CT/TW, ngày 24/3/2015 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015 - 2030. Trong bản chỉ thị đã phân tích những ưu điểm và hạn chế nhất định của thanh niên, cụ thể là “Thế hệ trẻ Việt Nam được giáo dục, chăm sóc, nuôi dưỡng ngày một tốt hơn; phần lớn thanh thiếu nhi tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường phát triển của đất nước, sống có trách nhiệm với Tổ quốc, gia đình và bản thân, có ước mơ, hoài bão, kiến thức, kỹ năng, sức khỏe tốt, tư duy năng động, sáng tạo, lạc quan, tự tin, dám nghĩ, dám làm; có nhiều đóng góp quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội ban hành Luật Thanh niên. Cụ thể là, từ Khoản 2 - Khoản 6 Điều 5 Luật TN-2020), có 6 chính sách đối với thanh niên như: Chính sách của nhà nước đối với thanh niên về học tập và nghiên cứu khoa học; Chính sách của nhà nước đối với thanh niên về lao động, việc làm; Chính sách của nhà nước đối với thanh niên về khởi nghiệp; Chính sách của nhà nước đối với thanh niên về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe; Chính sách của nhà nước đối với thanh niên về văn hóa, thể dục, thể thao; Chính sách của nhà nước đối với thanh niên về bảo vệ Tổ quốc.

Có thể thấy, việc thanh niên là đối tượng được quan tâm và tạo mọi điều kiện để xây dựng “những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 15, tr.612). Tuy nhiên, thanh niên cũng còn một số hạn chế cần phải khắc phục.Vì thế, việc thanh niên học tập và vận dụng tinh thần độc lập, tự chủ, ý chí tự lực, tự cường theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là việc làm cần thiết và ý nghĩa.

Tư duy độc lập, tự chủ của Hồ Chí Minh là tư duy thấu đáo trong việc nhìn nhận và đánh giá thực tiễn, phương hướng phát triển cũng như tiềm lực của dân tộc. Vì thế, trong môi trường năng động, nhiều cơ hội và cạm bẫy đan xen như hiện nay, thanh niên cần thấu suốt và điềm tĩnh, nên suy nghĩ và hành động một cách khoa học. Nên có óc phản biện xã hội và đưa ra quyết định dựa trên tư duy độc lập, tự chủ. Biết người, biết ta sẽ chiến thắng được mọi hoàn cảnh. Thêm nữa, phải có lập trường chính trị vững vàng, tin tưởng vào đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước. Hiểu sâu sắc giá trị lịch sử của dân tộc, hiểu về cuộc đấu tranh chính nghĩa mà cách mạng ta đã trải qua để ngày nay có được hòa bình, thống nhất đất nước. Từ đó, miễn nhiễm với âm, thủ đoạn chia rẽ, “diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ” mà các thế lực phản động hàng ngày, hàng giờ chống phá chế độ ta.

Vì vậy, việc không ngừng học và tự học, tự trao dồi và nâng cấp phẩm chất và năng lực của bản thân. Hồ Chí Minh là tấm gương sáng về việc ham học và tự học, mong muốn tiếp cận được văn hóa nhân loại một cách chủ động. Đồng thời, theo Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay, thanh niên còn phải có tính thần quốc tế trong sáng, chú trọng việc học ngoại ngữ – đây là một luận điểm hiện đại, tư duy tiến bộ của một nhà cách mạng đương thời, biết hội nhập và sẵn sáng kết nối với quốc tế - một viên gạch nền móng cho thanh niên ta trong giai đoạn xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Với ý chí tự lực, tự cường mà thanh niên cần học tập Bác trong giai đoạn hiện nay là sự nỗ lực trong cuộc sống, có ý chí “vượt khó”, “vượt sướng” để phát huy tốt vai trò xung kích tuổi trẻ. Như đã đề cập ở trên, Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước với trái tim nóng, một tin thần kiên cường và một bãn lĩnh vượt gian khổ. Tuy nhiên, trong các bài nói, bài viết và tác phẩm của Người để lại, chúng ta không bắt gặp những câu nói về sự gian khó trong hành trình cách mạng, bởi với Người, độc lập cho tổ quốc, tự do cho đồng bào là lý tưởng cao nhất mà Người quan tâm. Những khó khăn về điều kiện vật chất và nguy hiểm về tính mạng không phải là đều Người lo sợ. Trong xã hội ngày nay, điều kiện sống của thanh niên cũng còn khó khăn nhưng đa số đời sống vật chất, tinh thần ngày càng được nâng cao. Chính vì thế, thanh niên cũng dễ dàng sa vào các tệ nạn xã hội, sống thiếu lý tưởng và động lực phấn đấu. Vì thế, việc học tập Bác là một tấm gương sáng truyền cảm hứng tích cực, thanh niên lấy đó làm động lực rèn luyện và phấn đấu. Thời đại của hội nhập và phát triển, thanh niên cần xây dựng thêm cho mình tinh thần ý thức đoàn kết, hợp tác, biết làm việc độc lập nhưng cũng biết làm việc trong tập thể theo tinh thần trong sáng, hướng đến mục tiêu chung.

Thanh niên cần sống có lý tưởng và khát vọng cống hiến cho quê hương, đất nước. Bác Hồ từng nói: “Thời đại chúng ta bây giờ là thời đại vệ tinh nhân tạo, nghĩa là thời đại của khoa học phát triển rất mạnh, thời đại xã hội chủ nghĩa, thời đại anh hùng; mỗi người lao động tốt đều có thể trở nên anh hùng (không phải là anh hùng cá nhân). Vậy mong các cháu cũng làm người thanh niên anh hùng trong thời đại anh hùng” (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11, tr.399). Vậy, việc vận dụng và phát huy lời dạy của Bác Hồ đối với thanh niên Việt Nam giai đoạn hiện nay nhằm thúc đẩy khát vọng cống hiến cho đất nước và xã hội giàu mạnh trong thời gian tới. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh căn dặn thêm, Đảng cần phải chǎm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Chính từ quan điểm đó, trong Đại hội XIII của Đảng đã đưa ra nghị quyết “ khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” . Việc đào tạo, bỗi dưỡng cho thanh niên có đạo đức tốt và giỏi chuyên môn nghiệp vụ, khơi dậy lòng tự hào dân tộc và năng lực nội tại trong sinh viên để góp phần đóng góp vào công cuộc phát triển đất nước.

3. Kết luận

Hồ Chí Minh từng nhận định: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên muốn làm người chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải ra làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó” [5, tr.216].Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò, vị trí và khả năng làm chủ tương lai dân tộc, đất nước trong mọi thời kỳ.

Thanh niên Việt Nam may mắn khi có lãnh tụ tinh thần từtư tưởng, đạo đức, phong cách của Hồ Chí Minh để học tập và noi theo. Đặt biệt là trong kỷ nguyên 4.0, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, gắn liền với phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập vào đời sống của toàn cầu. Tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh soi đường cho Đảng và nhân dân Việt Nam trên con đường thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thông qua việc làm rõ tinh thần độc lập tự chủ, ý chí tự lực, tự cường của Hồ Chí Minh để từ đó, thanh niên lấy đó làm động lực phấn đấu, ý thức hơn về vai trò của bản thân và vững vàng hơn trong việc phát huy khát vọng lớn, hoài bảo lớn, góp phần xây dựng con người xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”, góp phần đóng góp cho gia đình, cộng đồng và đất nước trong giai đoạn hiện nay.

ThS. Lê Anh Thi

1. Ban Bí Thư Trung ương Đảng, (2001), “Đảng Cộng sản Việt Nam với công tác vận động thanh niên trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” . NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.

2. Bùi Thị Cần (chủ biên), (2020), Giáo dục sinh viên Việt Nam theo gương bản lĩnh chính trị Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập , NXB Đại học Vinh.

3. Đào Thị Trang, (2018), “ Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh nhằm xây dựng lối sống cho sinh viên hiện nay” . Tạp chí Giáo dục, số 427, tr. 1-4.

4. Giang Thiệu Thanh - Hoàng Yến My, (2011), Hồ Chí Minh về phát hiện và bồi dưỡng nhân tài, NXB Từ điển Bách khoa.

5. Hồ Chí Minh: Toàn tập , (2011), tập 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9, 11, 15, NXB Chính trị quốc gia – Sự Thật – Hà Nội.

6. https://quochoi.vn/tulieuquochoi/anpham/Pages/anpham.aspx?AnPhamItemID=1031

7. https://thuvienphapluat.vn/chinh-sach-phap-luat-moi/vn/thoi-su-phap-luat/tu-van-phap-luat/42089/chinh-sach-cua-nha-nuoc-doi-voi-thanh-nien

8. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/chi-thi-so-42-cttw-ngay-2432015-cua-ban-bi-thu-ve-tang-cuong-su-lanh-dao-cua-dang-doi-voi-cong-tac-giao-duc-ly-162

9. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-xiii/nghi-quyet-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-xiii-cua-dang-3663 ).

Khoa SP KHXH – Trường Đại học Đồng Tháp