
Có một sự thật, tất cả chúng ta đều mắc lỗi, không lớn thì nhỏ, không với người này thì với người khác. Nhưng có một sự khác biệt rất lớn giữa cách mà mỗi người đối diện với lỗi lầm của mình.
Đa số sẽ thừa nhận điều đó, xin lỗi và sửa đổi. Một số người chỉ thừa nhận một phần lỗi lầm, nhưng họ cũng vẫn sẽ sửa đổi hành vi của mình. Chỉ có một số ít người không bao giờ chấp nhận việc họ đã làm sai dù chỉ một phần, bất chấp mọi bằng chứng rõ ràng, họ sẽ chối ác.
Guy Winch, một tiến sĩ tâm lý học người Anh, tác giả cuốn sách "Sơ cứu cảm xúc", cho biết điều này xảy ra vì những người đó có cái tôi tâm lý rất yếu đuối, trái ngược với vẻ ngoài thường bị nhầm lẫn là cứng rắn, mạnh mẽ và kiên định của mình.

Tiến sĩ tâm lý học người Anh Guy Winch, tác giả cuốn sách "Sơ cứu cảm xúc".
"Một số người có cái tôi mong manh, lòng tự trọng dễ vỡ và "cấu tạo tâm lý" yếu ớt đến mức việc thừa nhận mình đã sai về cơ bản là quá sức chịu đựng với cái tôi yếu đuối của họ", tiến sĩ Winch cho biết.
"Việc chấp nhận mình đã sai, hấp thụ thực tế đó, sẽ gây tổn thương về mặt tâm lý đến mức cơ chế phòng vệ của họ sẽ làm một điều đáng chú ý để tránh cho tâm lý họ khỏi bị tổn thương—họ thực sự bóp méo nhận thức của mình về thực tại để khiến nó (thực tại đó) bớt đe dọa hơn.
Cơ chế phòng vệ của họ bảo vệ cái tôi mong manh bằng cách thay đổi chính những sự thật trong tâm trí, để họ có thể nghĩ rằng mình không còn sai, hoặc không còn đáng trách nữa".
Khi não bộ bóp méo thực tại, người chối ác sẽ nhất quyết không nhận mình sai. Và để không phải nhận mình sai, não bộ lại bóp méo thực tại
Để làm rõ hơn hiện tượng tâm lý kỳ lạ này, tiến sĩ Winch đã đưa ra 3 ví dụ minh họa. Ví dụ thứ nhất nói về một người nhận lỗi hoàn toàn. Khi một người chồng khăng khăng nói với vợ rằng họ không cần dừng xe ở tiệm tạp hóa để mua thêm sữa, để rồi khi về đến nhà, anh ấy nhận ra ở nhà đã hết sữa thật.
Người nhận lỗi hoàn toàn sẽ nói: "Ồ, em đã đúng. Lẽ ra chúng mình nên mua thêm sữa".
Ví dụ thứ hai, nói về việc nhận lỗi một phần. Người vợ giục người chồng ra sân bay sớm để kịp chuyến bay, nhưng anh ấy chủ quan cho rằng họ còn nhiều thời gian. Cuối cùng, một vụ tắc đường đã khiến họ trễ chuyến bay vì đến sân bay muộn.
Người nhận lỗi một phần sẽ nói: "Nếu không tắc đường thì chúng ta hẳn đã đến sân bay đúng giờ. Nhưng được thôi, lần sau chúng ta sẽ rút kinh nghiệm và đi sớm hơn".

Ví dụ cuối cùng, nói về người chối ác. Đó là một nhân chứng khai với cảnh sát rằng anh ấy đã nhìn thấy một người đàn ông nọ đột nhập vào ngôi nhà bên kia đường. Người đàn ông sau đó bị bắt vào tù 5 năm.
Nhưng 5 năm sau đó, có một người đã tự thú với cảnh sát chính anh ta mới là người đột nhập vào căn nhà đó. Bằng chứng DNA cũng xác nhận điều này và người đàn ông bị bắt đi tù oan được trả tự do.
Người chối ác sẽ nói: "Họ đã thả hắn ta vì bằng chứng DNA và lời thú tội của một gã khác. Thật nực cười! Chính gã đó mới là tội phạm. Tôi đã nhìn thấy hắn".
"Hai ví dụ đầu tiên có lẽ quen thuộc với hầu hết chúng ta vì đó là những phản ứng điển hình khi chúng ta mắc lỗi. Chúng ta nhận trách nhiệm hoàn toàn hoặc một phần (đôi khi chỉ một phần rất, rất nhỏ), nhưng chúng ta không phản bác lại các sự kiện thực tế. Chúng ta không khẳng định ở nhà có đủ sữa khi thực tế không phải vậy, hoặc chúng ta không phủ nhận thực tế rằng mình đã đến sân bay muộn", tiến sĩ Winch cho biết.
Nhưng ở ví dụ thứ ba thì khác, người chối ác sẽ phủ nhận mọi sự thật đã diễn ra. Đối với người khác, sự thật đó đã được chứng minh bằng bằng chứng rõ ràng. Nhưng người chối ác sẽ không bao giờ chấp nhận sự thật đó. Thậm chí, họ còn phủ nhận hết sự thật này đến sự thật khác, chối bay chối biến trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Nhưng tại sao lại vậy?
"Câu trả lời liên quan đến cái tôi của họ, chính ý thức về bản thân của họ", tiến sĩ Winch cho biết. "Những người liên tục thể hiện loại hành vi này, theo định nghĩa, là những người yếu đuối về mặt tâm lý".
Điều này có vẻ khá là phản trực giác khi những người chối ác cũng thường là người thể hiện ra với thế giới bên ngoài rằng họ là người rất mạnh mẽ, tự tin và luôn kiên định với quan điểm của mình.
"Nhưng sự cứng nhắc về mặt tâm lý không phải là biểu hiện của sức mạnh, mà là dấu hiệu của sự yếu đuối. Những người này không chọn cách đứng vững; họ buộc phải làm như vậy để bảo vệ cái tôi mong manh của mình", tiến sĩ Winch cho biết.
"Việc thừa nhận mình sai là một điều khó, nó gây tổn thương cho cái tôi của bất kỳ ai. Vì vậy, chúng ta cần có một lượng sức mạnh cảm xúc và lòng can đảm nhất định để đối mặt với thực tế rằng chúng ta đã sai và thừa nhận những lỗi sai của mình.
Đối với hầu hết mọi người, thừa nhận mình sai sẽ hơi khó chịu một chút. Nhưng chúng ta rồi cũng sẽ vượt qua được. Còn với những người không có khả năng thừa nhận mình sai, họ không thể chấp nhận quan niệm rằng họ có khả năng mắc lỗi.
Đó là vì họ có cái tôi quá mong manh đến mức không thể chấp nhận sự khó chịu vì phải nhận sai và vì vậy không thể vượt qua được - họ cần phải bóp méo chính nhận thức của mình về thực tại và thách thức những sự thật hiển nhiên để bảo vệ cho việc họ không sai ngay từ đầu".
Trong ví dụ thứ nhất, về người chồng không mua thêm sữa vì nghĩ rằng ở nhà vẫn còn sữa. Nếu anh ấy chối ác, anh ấy sẽ không bao giờ nhận lỗi và sẽ nói với vợ rằng: "Anh đã kiểm tra vào buổi sáng và thấy tủ lạnh vẫn còn sữa. Hẳn là có ai đó đã uống hết rồi".
Ngay cả khi ở nhà không có ai và bằng chứng từ camera cho thấy không có ai mở tủ lạnh, người chối ác vẫn sẽ nói: "Chắc chắn là có ai đó đã uống sữa, vì anh đã kiểm tra và thấy buổi sáng tủ lạnh vẫn còn".
"Cứ như thể có một bóng ma nào đó đã đột nhập vào nhà, uống hết sữa rồi bỏ đi không một dấu vết", tiến sĩ Winch cho biết.
"Trong ví dụ thứ ba của tôi, họ [những người chối ác] sẽ khăng khăng rằng việc nhận dạng tên cướp sai lầm của họ là đúng mặc dù có bằng chứng DNA và lời thú tội từ một người khác.
Khi buộc phải đối chất, họ sẽ tiếp tục khăng khăng hoặc chuyển sang tấn công bất kỳ ai cố gắng lập luận ngược lại và hạ thấp nguồn thông tin trái ngược (ví dụ: "Những phòng xét nghiệm này luôn mắc lỗi. Bên cạnh đó, bạn không thể tin lời thú tội từ một tên tội phạm khác! Tại sao bạn luôn đứng về phía họ?")".

Nói tóm lại, chối ác là một hành vi tâm lý kỳ lạ ẩn chứa trong đó một nghịch lý. Bởi đằng sau vẻ ngoài tự tin, cứng rắn và quan điểm kiên định của những người "chối ác" là một sự thật tréo ngoe: Họ không mạnh mẽ như chúng ta tưởng, mà quá yếu đuối đến mức không thể đối diện với lỗi lầm của chính mình.
"Sai lầm duy nhất mà chúng ta không nên mắc phải là coi sự chối ác và cứng rắn của họ, khi họ không thừa nhận rằng họ sai là dấu hiệu của sức mạnh hoặc niềm tin, vì đó là điều hoàn toàn ngược lại — là sự yếu đuối và mong manh về mặt tâm lý", tiến sĩ Winch cho biết.
Hiểu được điều này, chúng ta có thể chọn cách đồng cảm với những người hay chối ác, nhưng cũng cần giữ khoảng cách để bảo vệ bản thân khỏi những hệ quả từ hành vi ấy gây ra.
Quan trọng hơn, nó nhắc nhở mọi người rằng thừa nhận sai lầm không phải là thất bại, mà là một dấu hiệu của sức mạnh thật sự – sức mạnh để trưởng thành và sống chân thật với chính mình.
Thanh Long