Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo giá trị lý luận và thực tiễn

Thứ tư, 04/09/2024 - 07:00

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo được hình thành từ rất sớm. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, tư tưởng ấy thể hiện khát vọng hướng tới của một xã hội “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Bài viết làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo, những giá trị lý luận và thực tiễn được áp dụng vào thời đại ngày nay ở Việt Nam.

1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo

Chủ tịch Hồ Chí Minh có “ham muốn tột bậc” là xây dựng một nền giáo dục độc lập, tiến bộ, mang tính dân tộc, tiên tiến và hiện đại, để đưa nước nhà “sánh vai với các cường quốc năm châu”, nhân dân có quyền được học hành. Vì vậy, Người đã gắn bó cả cuộc đời mình với việc xây dựng một nền giáo dục mới, mọi người có cơ hội phát huy hết khả năng sẵn có của mình, được học hành, không phân biệt giai cấp, tuổi tác, trình độ, giới tính. Hồ Chí Minh là người kế tục và đưa cuộc đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ của thế hệ những người Việt Nam yêu nước tiền bối những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX phát triển lên một tầm cao mới.

Trong cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đặt sự nghiệp giáo dục và đào tạo là một bộ phận của công cuộc giải phóng dân tộc, giải phóng con người thoát khỏi sự ràng buộc của hệ tư tưởng lạc hậu của thực dân, phong kiến, đưa dân tộc Việt Nam trở thành một dân tộc văn minh, tiến bộ, bởi một khi dân trí cao sẽ xuất hiện nhiều nhân tài tham gia xây dựng đất nước. Hồ Chí Minh đã đanh thép tố cáo chế độ thực dân Pháp trong việc “làm cho dân ngu để trị”, “gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát”, đòi quyền “tự do học tập” và “thực hành giáo dục toàn dân”1. Người đã dày công tìm hiểu, giới thiệu cho đất nước những nền giáo dục tiên tiến mang tính nhân đạo, tính dân chủ, tính nhân văn cao cả của thế giới, bảo đảm cho sự phát triển toàn diện những năng lực sẵn có của con người. “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, Hồ Chí Minh đã chỉ cho người Việt Nam nguyên nhân và con đường đưa đất nước thoát khỏi cảnh yếu hèn, lạc hậu đó là con đường phát triển giáo dục và đào tạo.

Khi hoạt động ở Quảng Châu (Trung Quốc), Hồ Chí Minh tích cực tổ chức nhiều lớp học, biên soạn nhiều tài liệu và trực tiếp giảng dạy, những thế hệ học trò của Người đã trưởng thành, trở thành lớp cán bộ cốt cán đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925) đã cực lực lên án “chính sách ngu dân” của thực dân Pháp, là chính sách mà các nhà cầm quyền ở các thuộc địa của chúng ưa dùng nhất. Trong cuốn “Đường Kách mệnh” (1927) và “Chính cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt” (1930), Người xác định: Phải lập trường học cho công nhân, nông dân, cho con em họ và “Phổ thông giáo dục theo công nông hóa”. Đặc biệt, “Chương trình Việt Minh” (1941), nhấn mạnh: Hủy bỏ nền giáo dục nô lệ, xây dựng nền quốc dân giáo dục, cưỡng bức giáo dục từ bậc sơ học và mỗi dân tộc có quyền dùng tiếng mẹ đẻ trong nền giáo dục của mình.

Cách mạng tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á - mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc, kỷ nguyên “Độc lập tự do, dân chủ nhân dân” song, chính quyền non trẻ lâm vào tình cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”: kinh tế kiệt quệ, tài chính khánh kiệt, thiên tai, nạn đói hoành hành, “thù trong giặc ngoài” cấu kết với nhau để: tiêu diệt Đảng, phá tan Việt Minh, lật đổ chính quyền cách mạng. Trong đó, Hồ Chí Minh xác định: “giặc dốt” là một trong ba loại giặc cần tiêu diệt cùng với “giặc đói” và “giặc ngoại xâm”. Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (03-9-1945), Người nêu ra:“Nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: phải chống nạn dốt”, đó là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Người nhấn mạnh:“Tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ”2. Một tuần sau khi đọc “Tuyên ngôn độc lập”, Người ký sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ, để thanh toán nạn mù chữ cho nhân dân (08-9-1945).

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn động viên, khích lệ những chủ nhân tương lai của đất nước chăm chỉ học tập, rèn luyện làm rạng danh cho nước nhà, từ bức thư đầu tiên gửi cho học sinh nhân dịp khai trường: “Sau 80 năm trời nô lệ làm cho nước nhà bị yếu hèn, ngày nay chúng ta cần phải xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên đã để lại... Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp được hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”3 đến bức thư cuối cùng gửi cho ngành giáo dục - đào tạo (15-10- 1968), Người yêu cầu nền giáo dục - đào tạo phải ra sức phấn đấu theo kịp với trình độ, chất lượng của các nước tiên tiến: “Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn, nhằm giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra, và trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của khoa học và kỹ thuật”4.

Giáo dục nhằm đào tạo ra những lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của cha anh, đây là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, Đảng phải trực tiếp lãnh đạo, chăm lo cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo phát triển; cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, các đoàn thể quần chúng và toàn xã hội phải thật sự quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này. Phát huy cao độ tính dân chủ trong nhà trường, tạo nên sự đoàn kết nhất trí trong mối quan hệ mật thiết: thầy - thầy; thầy - trò; trò - trò; gia đình - nhà trường - xã hội. Nhìn vào một nền giáo dục sẽ thấy được hiện tại và tương lai của một đất nước: “Để phá hủy bất kỳ một quốc gia nào không cần phải sử dụng đến bom nguyên tử hoặc tên lửa tầm xa. Chỉ cần hạ thấp chất lượng giáo dục và cho phép gian lận trong các kỳ thi... Sự sụp đổ nền giáo dục là sự sụp đổ của một quốc gia” (Nelson Mandela). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói về điều hệ trọng này, trong “Di chúc”, Người nhấn mạnh trách nhiệm của Đảng đối với việc chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ: chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng, đào tạo thành những người thừa kế sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là việc rất quan trọng và rất cần thiết.

Trong quản lý giáo dục, Đảng phải lãnh đạo thực hiện điều tra nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm, đưa ra những chủ trương phải cụ thể, thiết thực, đúng đắn; kết hợp chặt chẽ chủ trương chính sách của trung ương với tình hình thực tế của cơ sở; trong quá trình lãnh, chỉ đạo, cấp ủy, chính quyền các cấp phải sâu sát, kịp thời đúc rút kinh nghiệm để đạt được kết quả cao nhất.

2. Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo là những gợi mở quan trọng, có thể vận dụng để tìm ra phương pháp luận nhằm giải quyết những “vướng mắc” của nền giáo dục nước ta hiện nay; những chỉ dẫn của Người được xem là yêu cầu bắt buộc của một nền giáo dục mới để đào tạo ra những con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên tắc học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn (cả Việt Nam và thế giới), giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đưa ra những quan điểm lý luận có ý nghĩa quan trọng đối với công cuộc xây dựng nền giáo dục - đào tạo mới, mà còn có những kiến giải khoa học và sáng tạo về phương pháp giáo dục: Phát huy dân chủ, thẳng thắn, cần có sự đối thoại trong quá trình học tập; mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến (dù đúng hoặc không đúng) để tiếp cận chân lý. Người yêu cầu phải căn cứ vào đặc điểm, nhu cầu của đối tượng, đưa ra những nội dung, phương pháp giáo dục phù hợp; lấy thống nhất giữa lý luận và thực tiễn làm nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng các phương pháp về giáo dục. Dạy và học phải gắn tri thức lý luận với thực tiễn cuộc sống; học và hành phải luôn đi đôi với nhau, gắn bó mật thiết với nhau, Người nhấn mạnh: “Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”5.

Dân chủ, thẳng thắn trong dạy học đòi hỏi người dạy và người học phải có tinh thần đoàn kết, kỷ luật theo nguyên tắc “trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải là “cá đối bằng đầu”6. Phương pháp giáo dục phải thiết thực, học tập suốt đời, đồng thời phải dạy cách học cho người học phù hợp với lứa tuổi; chú trọng hướng dẫn việc tự học, tự giáo dục: “không phải có thầy thì học, thầy không đến thì đùa. Phải biết tự động học tập”7.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo trở thành tài sản quý báu của dân tộc, là ngọn hải đăng soi đường sự nghiệp “trồng người” của Đảng và Nhà nước ta; là cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược, đề ra các chủ trương, chính sách chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt Nam nhằm đào tạo con người mới đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.

Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về giáo dục - đào tạo từ ngày thành lập nước (1945 - 2019), nhất là từ Đại hội lần thứ VI (12-1986) đến Đại hội lần thứ XII (1-2016) của Đảng Cộng sản Việt Nam, giáo dục - đào tạo luôn được khẳng định là “quốc sách hàng đầu”, là “động lực của sự phát triển đất nước” và “đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư cho phát triển”. Trong bối cảnh mới với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, trên cơ sở tổng kết và kế thừa việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, tại Hội nghị Trung ương 8 khóa XI (4-11-2013) Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 29- NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo.

 Các quan điểm chỉ đạo đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo trong tình hình mới được xác định là: giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục - đào tạo; phát triển giáo dục - đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; phát triển giáo dục - đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ phù hợp quy luật khách quan; đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục - đào tạo; chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục - đào tạo; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục - đào tạo, đồng thời giáo dục - đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.

Những nỗ lực của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong thời gian qua đã đánh dấu một bước phát triển mới trong công cuộc chấn hưng giáo dục nước nhà, góp phần giữ vững mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa: Mạng lưới trường học phát triển rộng khắp, hầu hết các xã trong cả nước, kể cả các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; phần lớn các xã vùng đồng bằng có trường trung học cơ sở, hầu hết các huyện có trường trung học phổ thông; các tỉnh và nhiều huyện đông đồng bào dân tộc đã có hệ thống trường dân tộc nội trú.

Đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp, đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực của đất nước và các địa phương, một số trường đại học phải sớm đạt chất lượng ở trình độ khu vực và quốc tế; hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng nhân tài, sớm xây dựng chính sách sử dụng và tôn vinh các nhà giáo, cán bộ quản lý giỏi, có công lớn trong sự nghiệp giáo dục - đào tạo. Phát triển giáo dục không chính quy, các hình thức học tập công đồng ở các xã, phường gắn với nhu cầu thực tế của đời sống kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người có thể học tập suốt đời, hướng tới xã hội học tập.

Giáo dục sau đại học đã đào tạo được số lượng đáng kể cán bộ có trình độ cao mà trước đây chủ yếu phải dựa vào nước ngoài. Góp phần quan trọng nâng cao số lượng, chất lượng đội ngũ lao động có trình độ học vấn và đội ngũ cán bộ đông đảo phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và an ninh, quốc phòng, có khả năng nắm bắt và ứng dụng nhanh chóng một số công nghệ mới. Nâng cao chất lượng đào tạo sau đại học, chấn chỉnh việc phong chức danh, học vị, cấp văn bằng; phát triển quy mô giáo dục trên cơ sở đảm bảo chất lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tăng nhanh dạy nghề và trung học chuyên nghiệp; thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục; có chính sách

hỗ trợ học sinh, sinh viên thuộc các gia đình nghèo và các đối tượng chính sách xã hội.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo từng góp phần mang lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam trong lịch sử, sẽ tiếp tục phát huy tác dụng trong bối cảnh đất nước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

3. Kết luận

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, trong đó có tư tưởng về giáo dục và đào tạo - bộ phận quan trọng trong vấn đề xây dựng nhân tố con người.

Quán triệt tư tưởng của Người, dưới sự quan tâm và lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp giáo dục của nước ta trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, cùng với những thành tựu, thực tiễn giáo dục - đào tạo vẫn tồn tại nhiều vấn đề cần khắc phục. Để hướng đến xây dựng một nền giáo dục Việt Nam hiện đại, hội nhập thế giới, chúng ta cần phải nghiên cứu, quán triệt sâu sắc những lời căn dặn của Hồ Chí Minh về giáo dục, đó cũng là nền tảng tư tưởng để Đảng và Nhà nước xây dựng chiến lược phát triển Việt Nam trong thời đại mới./.

-----------------------------------------------------------------

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN:

1. Hồ Chí Minh (2001), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.220

2. Hồ Chí Minh “Về vấn đề giáo dục”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1990, tr.36

3. Hồ Chí Minh “Về vấn đề giáo dục”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1990, tr.37

4. Hồ Chí Minh “Về vấn đề giáo dục”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1990, tr.257

5. Hồ Chí Minh (2000), Toàn Tập, Tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.331

6. Hồ Chí Minh (2000), Toàn Tập, Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.456

7. Hồ Chí Minh (2000), Toàn Tập, Tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.50

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hồ Chí Minh. (2001). Toàn tập. Tập 4. Hà Nội: Chính trị Quốc gia

2. Hồ Chí Minh. (2001). Toàn tập. Tập 6. Hà Nội: Chính trị Quốc gia

3. Hồ Chí Minh. (2001). Toàn tập. Tập 7. Hà Nội: Chính trị Quốc gia

4. Hồ Chí Minh. (2001). Toàn tập. Tập 11. Hà Nội: Chính trị Quốc gia

5. Hồ Chí Minh. (1990). Về vấn đề giáo dục. Hà Nội: Giáo dục

Th.s Phạm Hồng Hải - Khoa Lí luận cơ sở, Trường Chính trị tỉnh Lâm Đồng