Ảnh minh họa
I. MỞ ĐẦU
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”[6]. Hiện nay, chính sách văn hóa trở thành công cụ để Đảng ta “phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”[7] theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục đại học, nơi hình thành và phát triển nhân cách sinh viên.
Nhiều chính sách văn hóa đã được ban hành với mục tiêu hỗ trợ sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Chính sách văn hóa góp phần tuyên truyền giáo dục chính trị, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tuyên truyền, triển khai các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; cung cấp thông tin về kiến thức văn hóa lịch sử, trang bị kiến thức, phương pháp, kỹ năng, giáo dục ý thức cảnh giác, đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Đồng thời là một công cụ cơ bản và quan trọng của công tác đoàn kết, tập hợp, đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục sinh viên, là môi trường thuận lợi để sinh viên hoàn thiện nhân cách, giáo dục toàn diện Đức - Trí - Thể - Mĩ, nhằm giảm thiểu các tệ nạn xã hội, xây dựng và duy trì nếp sống, lối sống văn minh, góp phần cho sự nghiệp xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh. Tuy nhiên, việc thiết lập một hệ thống chính sách văn hóa để thực sự có ảnh hưởng tích cực đến sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên vẫn còn là một quá trình đầy thử thách. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để chính sách văn hóa không chỉ đóng góp vào sự nâng cao trình độ học vấn mà còn góp phần vào việc hình thành những giá trị đạo đức, thái độ sống và tinh thần trách nhiệm xã hội cho sinh viên. Điều này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, đánh giá và điều chỉnh liên tục các chính sách hiện hành dựa trên cơ sở thực tiễn áp dụng và phản hồi từ cộng đồng.
II. NỘI DUNG
1. Chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nền văn hóa mới hiện nay
Văn hóa được hiểu là tổng thể của các giá trị, chuẩn mực, tập quán, biểu tượng, ngôn ngữ và sản phẩm vật chất và tinh thần mà một cộng đồng chấp nhận và truyền lại qua các thế hệ. Văn hóa không chỉ bao gồm các thành tố như nghệ thuật, âm nhạc hay văn học mà còn bao gồm cả những hệ thống tư tưởng và quan niệm về đạo đức, lối sống và cách thức con người tương tác với nhau trong xã hội. Chính sách văn hóa của Việt Nam được xây dựng nhằm mục tiêu bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời thích ứng và hội nhập với văn hóa toàn cầu. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nói là khôi phục vốn cũ, thì nên khôi phục cái gì tốt, cái gì không tốt thì loại dần ra”[1]. Trong quá trình hội nhập, Đảng ta cũng ý thức được hậu quả trước sự xâm nhập của “tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ”[3]. Mặt khác, “chính sách về kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế, về huy động, quản lý các nguồn lực cho văn hóa chưa cụ thể, rõ ràng”[3]. Chỉ thị số 45-CT/TƯ của Ban Bí Thư Trung ương Đảng đã sớm định hướng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong việc giữ gìn, bảo vệ “bản sắc văn hóa” trong thời kỳ hội nhập quốc tế, ngăn ngừa, phòng, chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại, ảnh hưởng đến văn hóa truyền thống và đạo đức xã hội.
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng và xác định đúng vị trí của công tác xây dựng và thực hiện chính sách văn hóa. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (1998) “Về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” khẳng định vai trò của văn hóa là “nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội”[2] nhằm tạo ra đời sống tinh thần cao đẹp. Nghị quyết này đã trở thành định hướng cơ bản cho sự phát triển nền văn hóa của nước ta trong tương lai. Hội nghị Trung ương 10 khóa XI (2014) tiếp tục nhấn mạnh chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, quan tâm chăm lo xây dựng, hoàn thiện những phẩm giá nhân cách tốt đẹp của con người Việt Nam. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta khẳng định: “Tiếp tục đổi mới toàn diện nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về văn hóa. Tăng cường đầu tư, khai thác và phát huy tối đa các nguồn lực văn hóa đi đôi với đổi mới nội dung, phương thức quản lý, khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả; tăng cường kiểm tra, giám sát, bảo đảm hiệu quả đầu tư cao trong lĩnh vực văn hóa. Đổi mới, hoàn thiện các thiết chế văn hóa từ Trung ương đến cơ sở, bảo đảm hiệu quả”[4].
Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách để khuyến khích các hoạt động văn hóa, giáo dục và nghệ thuật nhằm nâng cao nhận thức và sự tự hào về văn hóa Việt Nam. Văn hóa và nhân cách có mối quan hệ chặt chẽ: văn hóa cung cấp khung chuẩn mực và giá trị mà qua đó nhân cách được hình thành và phát triển. Trong giáo dục, đặc biệt là ở cấp đại học, việc truyền đạt văn hóa không chỉ thông qua sách giáo khoa mà còn qua môi trường học tập, quan hệ giữa giảng viên và sinh viên, cũng như qua các hoạt động ngoại khóa và cộng đồng. Sự phát triển của nhân cách sinh viên tại các trường đại học không chỉ dựa trên kiến thức chuyên môn mà còn dựa trên việc tiếp nhận và thích ứng với văn hóa đại học. Đây là cơ sở để tìm hiểu và phân tích sâu hơn về cách thức mà chính sách văn hóa Việt Nam hiện nay tác động đến việc giáo dục và phát triển nhân cách cho sinh viên, nhằm đạt được mục tiêu phát triển một thế hệ mới có khả năng vừa hội nhập quốc tế vừa gìn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc.
2. Vai trò của chính sách văn hóa trong việc phát triển nhân cách của sinh viên hiện nay
Hiện nay, Việt Nam đã ban hành một loạt các chính sách văn hóa, bao gồm các luật liên quan đến văn hóa, giáo dục và thanh niên. Những chính sách này nhằm giúp mỗi thanh niên, sinh viên luôn nỗ lực hoàn thiện bản thân, đồng thời cống hiến, xây dựng và bảo vệ đất nước. Các chính sách này không chỉ làm phong phú thêm trải nghiệm học tập mà còn tạo nền tảng vững chắc cho việc hình thành nhân cách và giá trị sống của sinh viên. Điều này xuất phát từ vai trò và vị trí quan trọng của thanh niên đối với sự phát triển và hưng thịnh của quốc gia, dân tộc. Chính sách văn hóa có thể tác động mạnh mẽ đến việc thiết kế chương trình học và nội dung giáo dục tại các trường đại học. Việt Nam đã áp dụng chính sách tích hợp văn hóa vào giáo dục đại học thông qua việc đa dạng hóa các môn học liên quan đến văn hóa, lịch sử, nghệ thuật và triết học. Những chính sách này thường hướng đến việc tích hợp các giá trị văn hóa, lịch sử và truyền thống vào nội dung giảng dạy, nhằm đảm bảo sinh viên không chỉ được trang bị kiến thức chuyên môn mà còn được nuôi dưỡng về mặt văn hóa và đạo đức. Qua việc tích hợp các giá trị văn hóa, lịch sử và nghệ thuật vào chương trình giảng dạy, sinh viên không chỉ học về quá khứ và hiện tại của đất nước mình mà còn được rèn luyện các giá trị đạo đức như lòng yêu nước, trách nhiệm và tôn trọng sự đa dạng trong cộng đồng. Nội dung chương trình đào tạo phong phú và đa dạng, luôn được cập nhật để không phải chỉ học để đối phó, mà đó là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, cần phải không ngừng trau dồi đạo đức, hoàn thiện nhân cách, để không bị những cám dỗ, lôi kéo vào các hành vi sai trái, suy thoái về đạo đức lối sống.
Các trường đại học được khuyến khích tham gia vào các dự án nghiên cứu nhằm khám phá và tái hiện các yếu tố văn hóa truyền thống bằng các phương pháp hiện đại. Điều này bao gồm việc sử dụng công nghệ mới trong việc bảo tồn và phục hồi các di sản văn hóa, cũng như phát triển các hình thức nghệ thuật mới. Một môi trường học tập năng động, tương tác cao và khuyến khích thảo luận mở sẽ giúp sinh viên phát triển kỹ năng tư duy phản biện và kỹ năng xã hội, đồng thời hình thành các giá trị nhân cách quan trọng.
Các trường đại học còn thường xuyên tổ chức các sự kiện như lễ hội, triển lãm và hội thảo, nơi sinh viên có thể trình bày các dự án của mình và giao lưu với các nhà văn hóa, nghệ sĩ và nhà khoa học. Sự tham gia này cũng giúp củng cố tinh thần đoàn kết và tự hào dân tộc, đồng thời khuyến khích sinh viên áp dụng những gì họ học được vào việc phát triển cộng đồng. Chính sách văn hóa có thể bao gồm việc cung cấp tài chính và cơ sở vật chất cho các câu lạc bộ nghệ thuật, tổ chức triển lãm văn hóa hoặc tạo điều kiện cho các chuyến đi thực tế đến các địa điểm văn hóa quan trọng. Điều này không chỉ tăng cường lòng tự trọng mà còn thúc đẩy sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau giữa các nền văn hóa cũng như khả năng hợp tác và làm việc nhóm hiệu quả.
Nhìn chung, chính sách văn hóa trong giáo dục đại học không chỉ ảnh hưởng đến nội dung học tập mà còn đến phương pháp học và cách sinh viên tham gia vào xã hội. Văn hóa trong môi trường giáo dục đại học bao gồm cả giá trị và chuẩn mực đạo đức mà sinh viên được khuyến khích thực hành, phản ánh qua các môn học và hoạt động xã hội. Chính sách văn hóa hiệu quả cần bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống, đồng thời mở rộng, hòa nhập yếu tố mới mẻ, phù hợp với xu hướng phát triển toàn cầu, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển cá nhân sinh viên trong tương lai.
3. Giải pháp phát huy vai trò của chính sách văn hóa trong việc hoàn thiện và phát triển nhân cách của sinh viên trong trường đại học hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay, dưới ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường, bản tính vị kỷ của con người ngày càng thể hiện rõ rệt. Xu hướng thực dụng và sự tập trung vào lợi ích cá nhân đã trở nên phổ biến, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến nhân cách của một bộ phận không nhỏ sinh viên. Một bộ phận đáng kể trong sinh viên có lối sống ích kỷ, chỉ chú trọng đến lợi ích cá nhân mà không quan tâm đến lợi ích cộng đồng. Tình cảm gia đình, bạn bè và người thân dần bị xói mòn, nhường chỗ cho các mối quan hệ dựa trên vật chất. Trước thực trạng này cần có những giải pháp để phát huy vai trò của chính sách văn hóa trong việc hoàn thiện và phát triển nhân cách của sinh viên trong trường đại học hiện nay.
Thứ nhất, Đảng và Nhà nước cần tăng cường đầu tư vào các chương trình giáo dục văn hóa tại các trường đại học, bao gồm việc mở rộng cơ sở vật chất, phát triển tài liệu giảng dạy, và tài trợ cho các dự án nghiên cứu văn hóa. Chính phủ nên hỗ trợ và khuyến khích các nghiên cứu văn hóa liên ngành như công nghệ thông tin, khoa học xã hội và nghệ thuật có thể dẫn đến các phát hiện mới và cải tiến việc bảo tồn, phát triển văn hóa.
Thứ hai, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần phối hợp với các trường đại học thiết kế và ban hành khung chương trình giao dục đa văn hóa. Trên cơ sở này, các trường sẽ có phương pháp thiết kế chương trình cụ thể cho sinh viên tăng cường hiểu biết về văn hóa dân tộc mà vẫn có khả năng thích ứng và tương tác hiệu quả với các văn hóa khác. Các trường đại học và các nhà hoạch định chính sách cần xem xét việc tích hợp sâu hơn các yếu tố văn hóa vào chương trình giáo dục để văn hóa không chỉ là một phần của nội dung mà còn là phương pháp giảng dạy, nhằm phát triển kỹ năng phản biện, sáng tạo và hiểu biết xã hội của sinh viên.
Thứ ba, cần tăng cường các chương trình đào tạo chuyên sâu về năng lực giảng dạy và phẩm chất nghề nghiệp của giảng viên một cách hiệu quả. Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”[5]. Giảng viên chính là một trong những nhân tố tác động trực tiếp đến việc hình thành và phát triển tư duy nhân cách của sinh viên. Giảng viên phải trở thành những tấm gương về sự hiểu biết và tôn trọng văn hóa, từ đó tạo ảnh hưởng tích cực đến sinh viên.
Thứ tư, động viên và khuyến khích sinh viên tham gia vào quá trình phát triển và cải tiến chính sách văn hóa. Các trường đại học cần tạo điều kiện cho sinh viên tham gia vào quá trình thiết kế và triển khai các chương trình chính sách văn hóa thông qua các hội thảo, khảo sát và các nhóm tập trung, nơi sinh viên có thể bày tỏ ý kiến và đề xuất cải tiến. Sự kết hợp giữa lý luận học thuật và kinh nghiệm thực tiễn của sinh viên giúp làm phong phú thêm chính sách và đảm bảo rằng các sáng kiến văn hóa được điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu thực tế của họ.
III. KẾT LUẬN
Chính sách văn hóa của Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của sinh viên đại học qua việc tích hợp các yếu tố văn hóa vào chương trình giáo dục. Các khóa học về văn hóa, lịch sử và nghệ thuật không chỉ cung cấp kiến thức mà còn nuôi dưỡng tinh thần yêu nước và tự hào dân tộc. Tham gia các hoạt động văn hóa giúp sinh viên cải thiện kỹ năng giao tiếp, hiểu biết xã hội và nhận thức sâu sắc về trách nhiệm cá nhân và cộng đồng. Chính sách văn hóa khuyến khích sinh viên tìm hiểu và đánh giá lại giá trị truyền thống, giúp sinh viên giải quyết vấn đề linh hoạt và sáng tạo. Tham gia vào các dự án và sự kiện văn hóa cũng giúp sinh viên phát triển mạng lưới xã hội và kỹ năng lãnh đạo, chuẩn bị cho tương lai.
Để củng cố vai trò của văn hóa trong giáo dục đại học, cần phát triển và tích hợp sâu rộng hơn các khóa học văn hóa trong chương trình chính khóa, tăng cường kỹ năng giao tiếp và hiểu biết xã hội cho sinh viên. Các trường đại học cần tạo thêm cơ hội cho sinh viên tham gia vào các hoạt động văn hóa thực tiễn, từ tổ chức sự kiện đến các dự án bảo tồn di sản, giúp họ vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, xây dựng tinh thần cộng đồng. Khuyến khích nghiên cứu và đổi mới để giảng viên và sinh viên phát triển phương thức giảng dạy và học hỏi văn hóa, chuẩn bị cho hội nhập toàn cầu. Việc đầu tư vào chính sách văn hóa là cần thiết để mở rộng tác động tích cực đối với giáo dục đại học Việt Nam, đảm bảo sự phát triển bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa.
----------------------------------------------------------------------- TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Đại học Quốc gia Hà Nội (1998), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng văn hóa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 161 - 162.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCH TW khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 55.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, tr.146.
5. Hồ Chí Minh Toàn tập (1995), Tập 5, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.263
6. Hồ Chí Minh Toàn tập, (2011), Tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 458 - 459.
7. Hồ Chí Minh Toàn tập, (2011), Tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 404.
Th.s Nguyễn Thị Thơm - Khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Nguyễn Tất Thành