Vai trò của nông dân trong phát triển nông nghiệp bền vững: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở tỉnh Cao Bằng

Chủ nhật, 14/12/2025 - 18:09

Phát triển nông nghiệp bền vững là định hướng lớn của Đảng nhằm bảo đảm an ninh lương thực, bảo vệ môi trường và nâng cao đời sống nông dân, đặc biệt ở các tỉnh miền núi như Cao Bằng. Bài viết phân tích vai trò chủ thể của nông dân trong tiến trình này, dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn địa phương. Qua số liệu về cơ cấu kinh tế, mô hình sản xuất và liên kết chuỗi giá trị, bài viết làm rõ những đóng góp nổi bật của nông dân trong chuyển đổi nông nghiệp theo hướng bền vững, đồng thời chỉ ra hạn chế và đề xuất giải pháp nhằm phát huy vai trò của nông dân tỉnh Cao Bằng nhằm hướng tới nền nông nghiệp hiệu quả, sinh thái và gắn kết cộng đồng.

Từ khóa: Nông dân; nông nghiệp bền vững; phát triển nông thôn; vai trò chủ thể; Cao Bằng; lý luận và thực tiễn.Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, suy giảm tài nguyên và ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng, phát triển nông nghiệp bền vững là xu thế tất yếu và yêu cầu cấp bách. Nông dân không chỉ là lực lượng sản xuất chủ yếu mà còn giữ vai trò trung tâm trong thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, nhất là ở nông thôn, miền núi. Tỉnh Cao Bằng, nơi trên 80% dân số sống ở nông thôn và kinh tế nông - lâm nghiệp - thủy sản chiếm tỷ trọng lớn với 20,83%[1], đang từng bước chuyển đổi mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng sinh thái, hiệu quả và thích ứng với đặc thù địa phương. Việc phát huy vai trò chủ thể của người nông dân trong quá trình này là yếu tố then chốt, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn, bảo vệ môi trường và xây dựng nông thôn mới bền vững.

1. Cơ sở lý luận về vai trò của nông dân trong phát triển nông nghiệp bền vững
Phát triển nông nghiệp bền vững đang trở thành định hướng chiến lược mang tính toàn cầu trong thế kỷ XXI, nhằm ứng phó hiệu quả với những thách thức ngày càng gay gắt như biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên và suy thoái môi trường. Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO), nông nghiệp bền vững là "quá trình quản lý và sử dụng tài nguyên nông nghiệp như đất, nước, đa dạng sinh học... nhằm đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai"[2].Ở Việt Nam, nông nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng và là "bệ đỡ" của nền kinh tế quốc dân. Nông nghiệp không chỉ bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, tạo việc làm và thu nhập cho phần lớn dân cư nông thôn, mà còn là nền tảng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Đại hội XI của Đảng đã xác định: "Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả và bền vững; gắn sản xuất với công nghiệp chế biến và thị trường tiêu thụ, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia"[3]. Quan điểm này tiếp tục được kế thừa và phát triển sâu sắc tại Đại hội XIII, với định hướng: "Phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh; đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ số, công nghệ thông minh; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân"[4]. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, nông nghiệp Việt Nam cần vươn tầm khu vực và toàn cầu, tham gia hiệu quả vào các chuỗi giá trị cao, đáp ứng yêu cầu về chất lượng, an toàn, truy xuất nguồn gốc và thân thiện môi trường. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 mở ra cơ hội hiện đại hóa nông nghiệp, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh. Nông nghiệp bền vững không chỉ chú trọng năng suất mà còn thích ứng biến đổi khí hậu, hướng tới mô hình sinh thái, thông minh, tuần hoàn. Nông dân là chủ thể trung tâm quyết định chuyển đổi sản xuất, ứng dụng công nghệ, xây dựng nông thôn mới và bảo vệ môi trường. Vì vậy, chính sách nông nghiệp chỉ hiệu quả khi phát huy vai trò sáng tạo của nông dân - nhân tố then chốt cho phát triển bền vững.Phát triển bền vững là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước, trong đó nông nghiệp giữ vị trí chiến lược, còn nông dân là lực lượng trung tâm. Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững…" . Do đó, nông dân là chủ thể trực tiếp sản xuất và quản lý tài nguyên thiên nhiên, nhận thức và hành vi của nông dân ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả, tính bền vững của nông nghiệp. Nông dân không chỉ là người sản xuất mà còn là chủ thể lưu giữ, lan tỏa tri thức phù hợp với điều kiện sinh thái, văn hóa địa phương.2. Thực tiễn vai trò của nông dân trong phát triển nông nghiệp bền vững tại tỉnh Cao BằngTuy đã có nhiều chuyển biến tích cực, việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển nông nghiệp bền vững ở Cao Bằng vẫn còn hạn chế. Trình độ, kỹ năng, năng lực quản lý của nông dân còn thấp; khả năng tiếp cận thị trường, công nghệ và vốn ưu đãi còn hạn chế, khiến họ thiếu chủ động, khó mở rộng sản xuất và nâng cao giá trị sản phẩm. Sản xuất vẫn nhỏ lẻ, manh mún, liên kết với hợp tác xã, doanh nghiệp lỏng lẻo; nhiều hợp tác xã quản trị yếu, hoạt động hình thức. Điều này cho thấy nông dân vẫn chưa đủ điều kiện để trở thành lực lượng dẫn dắt chuyển đổi sang nền nông nghiệp bền vững.3. Giải pháp phát huy vai trò của nông dân trong phát triển nông nghiệp bền vững tại tỉnh Cao BằngĐể phát huy hơn nữa vai trò của nông dân trong phát triển nông nghiệp bền vững, tỉnh Cao Bằng cần tập trung đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức và năng lực cho nông dân về nông nghiệp sinh thái, hữu cơ, tuần hoàn. Việc này phải được thực hiện thông qua các chương trình tuyên truyền sâu rộng, các lớp tập huấn kỹ thuật và đào tạo kỹ năng sản xuất xanh, kết hợp với quản lý sản xuất hiện đại. Đồng thời, cần xây dựng đội ngũ "nông dân nòng cốt" ở từng địa phương, những người vừa am hiểu kỹ thuật vừa có uy tín trong cộng đồng, đóng vai trò là hạt nhân lan tỏa, hướng dẫn và hỗ trợ các hộ nông dân khác áp dụng mô hình mới.
Thứ hai, tổ chức lại sản xuất theo hướng liên kết chuỗi giá trị để khắc phục tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún. Trọng tâm là khuyến khích thành lập và củng cố các hợp tác xã, tổ hợp tác, từng bước hình thành các vùng nguyên liệu tập trung gắn với sản phẩm chủ lực của địa phương. Quy trình sản xuất cần được chuẩn hóa theo các tiêu chuẩn như VietGAP, GlobalGAP hoặc hữu cơ, đồng thời đảm bảo sự kết nối chặt chẽ giữa các khâu sản xuất - chế biến - tiêu thụ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng cho nông sản.
Thứ ba, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ và chuyển đổi số trong nông nghiệp để tăng hiệu quả sản xuất và khả năng cạnh tranh. Các mô hình nhà màng, nhà lưới, hệ thống tưới nhỏ giọt, cảm biến giám sát môi trường canh tác, nhật ký sản xuất điện tử và truy xuất nguồn gốc bằng QR code cần được nhân rộng. Song song, phải hỗ trợ nông dân bán hàng qua các nền tảng thương mại điện tử, đồng thời xây dựng hạ tầng số chung kết nối giữa nông dân - hợp tác xã - doanh nghiệp - nhà phân phối, tạo hệ sinh thái số cho ngành nông nghiệp tỉnh.
Thứ tư, tăng cường liên kết thị trường và phát triển thương hiệu nông sản. Trọng tâm là ký kết các hợp đồng bao tiêu sản phẩm, phát triển chương trình "Mỗi xã một sản phẩm" (OCOP), đăng ký và bảo hộ chỉ dẫn địa lý, mở rộng hoạt động quảng bá qua hội chợ, triển lãm và truyền thông số. Bên cạnh đó, cần đầu tư hệ thống logistics, kho lạnh, điểm sơ chế, đóng gói hiện đại, đặt tại các vùng sản xuất tập trung và gần cửa khẩu quốc tế để tạo thuận lợi cho tiêu thụ nội địa và xuất khẩu.
Thứ năm, hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ nhằm tạo điều kiện thuận lợi và động lực cho nông dân phát triển sản xuất bền vững. Cụ thể là mở rộng các gói tín dụng ưu đãi cho nông nghiệp xanh, triển khai bảo hiểm nông nghiệp, lồng ghép nguồn vốn từ các chương trình mục tiêu quốc gia, tăng cường hỗ trợ nghiên cứu - chuyển giao công nghệ, và xây dựng các mô hình điểm về nông nghiệp thông minh. Những chính sách này sẽ là nền tảng để nông dân yên tâm đầu tư, đổi mới tư duy sản xuất và tham gia tích cực vào quá trình xây dựng nền nông nghiệp bền vững của tỉnh.

Vai trò của nông dân trong phát triển nông nghiệp bền vững tại tỉnh Cao Bằng thể hiện qua một số khía cạnh sau:
Trong tổ chức sản xuất - chuyển đổi từ nhỏ lẻ sang liên kết tập thể. Sự tham gia chủ động của nông dân vào các hợp tác xã (HTX), tổ hợp tác (THT) và nhóm sở thích đã tạo ra bước đột phá về quy mô, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản xuất nông nghiệp. Đến 30/7/2025, toàn tỉnh có 178 HTX nông nghiệp (119 HTX hoạt động hiệu quả), cùng 178 THT và 512 nhóm sở thích. Đây không chỉ là con số tăng về lượng mà còn là sự trưởng thành về chất, người nông dân đã biết tận dụng sức mạnh tập thể, chia sẻ nguồn lực, chuẩn hóa quy trình sản xuất, giảm chi phí và gia tăng giá trị sản phẩm. Các mô hình liên kết chuỗi như miến dong xã Thành Công, rau hữu cơ Cao Bằng Green Farm xã Bảo Lâm, mô hình kết hợp sản xuất lưỡi cày thủ công với nông sản tại HTX Phúc Sen xã Quảng Hòa... Những mô hình này không chỉ góp phần nâng cao thu nhập mà còn thúc đẩy hình thành tư duy sản xuất chuyên nghiệp, gắn kết chặt chẽ với thị trường tiêu thụ.
Trong ứng dụng khoa học - kỹ thuật. Người nông dân đã trở thành lực lượng trực tiếp tiếp nhận và lan tỏa công nghệ mới. Trên nền tảng canh tác truyền thống, họ mạnh dạn đổi mới phương thức sản xuất, chuyển sang canh tác hữu cơ, sinh học, áp dụng tưới nhỏ giọt, nhà màng, phân bón vi sinh, chế phẩm sinh học, hệ thống cảm biến giám sát môi trường và trồng dược liệu dưới tán rừng. Tiêu biểu như vùng rau an toàn VietGAP 20 ha ở xã Đàm Thủy; vùng dược liệu 120 ha tại xã Hoa Thám, xã Thành Công; mô hình nấm sạch tại HTX Yên Công phường Thục Phán; mô hình sản xuất dưa lưới trong nhà màng tại HTX Thanh Xuân xã Hòa An; mô hình chăn nuôi lợn hữu cơ tuần hoàn tại HTX Tâm Hòa xã Nguyên Bình và mô hình liên kết trồng hạt dẻ theo quy trình VietGAP tại xã Trùng Khánh… Các mô hình này mang lại năng suất, giá trị gia tăng vượt trội, đáp ứng tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và bảo vệ môi trường, qua đó giảm rủi ro sinh thái, nâng cao sức cạnh tranh nông sản địa phương.
Trong hội nhập thị trường và chuyển đổi số nông nghiệp. Người nông dân đã chủ động phá vỡ "vòng khép kín" của sản xuất truyền thống. Hơn 180 HTX nông nghiệp bán hàng qua Postmart, Voso, ShopeeFarm…; nhiều hộ áp dụng nhật ký điện tử và QR code truy xuất nguồn gốc, đáp ứng yêu cầu minh bạch của thị trường trong và ngoài nước. Điều này không chỉ nâng giá trị nông sản mà còn quảng bá thương hiệu nông sản Cao Bằng ra phạm vi rộng hơn, kể cả thị trường Trung Quốc qua các cửa khẩu.
Trong khai thác lợi thế địa phương và tham gia định hình chiến lược phát triển bền vững. Tỉnh xác định phát triển nông nghiệp thông minh theo hướng sản xuất hàng hóa đặc hữu gắn với chế biến là một trong ba đột phá chiến lược. Trên cơ sở định hướng này, người nông dân chủ động thích ứng chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển các sản phẩm thế mạnh như lê, hạt dẻ, trúc sào, thuốc lá, thạch đen…, từng bước thay đổi tư duy từ sản xuất nhỏ lẻ sang hàng hóa, nâng cao giá trị gia tăng. Cùng với sự tham gia liên kết của doanh nghiệp, tiêu biểu như Dự án "Khu sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao" hơn 16,5 tỷ đồng đưa vào sử dụng từ 11/2024, người nông dân vừa là lực lượng trực tiếp triển khai vừa là đối tượng thụ hưởng chính, góp phần thúc đẩy chuyển đổi nền nông nghiệp theo hướng hiện đại, hiệu quả và thân thiện môi trường.
Tác động lan tỏa về kinh tế, xã hội và môi trường. Các thành quả nổi bật trong giai đoạn 2021 - 2025 đã minh chứng rõ vai trò trung tâm của người nông dân trong kiến tạo nền nông nghiệp bền vững ở Cao Bằng. Toàn tỉnh hiện có 174 sản phẩm OCOP (trong đó 10 sản phẩm đạt 4 sao, 164 sản phẩm đạt 3 sao), khoảng 750 ha cây trồng theo hướng hữu cơ, cùng 92,6 ha cây trồng và 85 cơ sở chăn nuôi đạt chuẩn VietGAP. Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp bình quân gaii đoạn 2020 – 2025 đạt 2,97%/năm; giá trị sản phẩm trồng trọt, nuôi trồng thủy sản trên 1 ha đạt 50 triệu đồng. Thu nhập bình quân của lao động trong hợp tác xã đạt 52 - 55 triệu đồng/người/năm, tăng 13% so với năm 2021; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 23,1%, trong khi tỷ lệ hộ sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 97%. Những con số này cho thấy nông nghiệp do nông dân từng bước làm chủ hiệu quả kinh tế, tạo công ăn việc làm, nâng cao đời sống, giảm nghèo, bảo vệ tài nguyên, đa dạng sinh học và thích ứng biến đổi khí hậu.
Có thể khẳng định, trong tiến trình phát triển nông nghiệp bền vững, nông dân Cao Bằng không chỉ là lực lượng sản xuất chủ yếu mà còn là chủ thể sáng tạo, trung tâm của sự phát triển. Thực tiễn cho thấy, người nông dân đã mạnh dạn chuyển đổi mô hình canh tác, tích cực tham gia hợp tác xã, ứng dụng khoa học - công nghệ, liên kết thị trường và chú trọng bảo vệ môi trường sinh thái, từng bước hiện thực hóa định hướng "nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh" mà Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Trong bối cảnh hội nhập và chuyển đổi số, phát huy vai trò chủ thể của nông dân chính là chìa khóa để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị nông sản và sức cạnh tranh của ngành nông nghiệp tỉnh, tạo nền tảng để họ trở thành lực lượng kiến tạo, dẫn dắt tiến trình chuyển đổi sang nền nông nghiệp xanh, sinh thái, hiện đại và bền vững ở Cao Bằng./.………………………………………………………………………
ThS. Lê Thị Thư
Trường Chính trị Hoàng Đình Giong, tỉnh Cao Bằng
[1] Cục Thống kê tỉnh Cao Bằng năm 2024.[2] FAO. Sustainable agriculture and rural development: Concepts and Strategies. Rome, 2020.[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, 2011, tập I, tr. 112.[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 2021, tập I, tr. 165.