Tuy nhiên, về nhận thức lẫn hành động vẫn tồn tại nhiều định kiến, nhiều "vách ngăn" cả "hữu hình" lẫn "vô hình" đòi hỏi cần nhận diện, xác định rõ nguyên nhân và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin trên cơ sở điều kiện thực tiễn của Việt Nam hiện nay để xoá bỏ triệt để những định kiến này theo tinh thần của Nghị quyết số 68-NQ/TW.
Từ khoá: Định kiến, kinh tế tư nhân, xoá bỏ, Chủ nghĩa Mác - Lênin, Việt Nam.
Nhận diện những định kiến về kinh tế tư nhân
Theo Từ điển Tiếng Việt đưa ra định nghĩa về định kiến như sau: "ý kiến có sẵn đã lâu, khó có thể thay đổi được"[1]. Tác giả Fischer thì cho rằng: "Định kiến xã hội là những thái độ bao hàm sự đánh giá một chiều và sự đánh giá đó là tiêu cực đối với cá nhân khác hoặc nhóm khác"[2]. Như vậy, có rất nhiều cách hiểu, cách tiếp cận khác nhau, nhưng tựu trung lại, định kiến được hiểu là thái độ tiêu cực, vô lý và không công bằng đối với một chủ thể cả về phương diện nhận thức lẫn ứng xử. Trong lĩnh vực kinh tế, định kiến đối với bất kỳ thành phần kinh tế nào cũng sẽ kéo theo cách hành xử không bình đẳng trên nhiều phương diện như xác lập vị trí, vai trò, cơ chế, chính sách hay môi trường phát triển.
Cùng với sự thay đổi về nhận thức đối với vị thế, địa vị pháp lý đối với kinh tế tư nhân, trong gần 40 năm cải cách và mở cửa, Đảng ta đã có những điều chỉnh, nỗ lực đáng kể, từng bước xoá bỏ định kiến đối với thành phần kinh tế này. Từ chỗ bị xác định là thành phần kinh tế "cần phải cải tạo" đến được thừa nhận, ghi nhận chính thức trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc. Từ chỗ bị hạn chế về quy mô, lĩnh vực hoạt động: "Sử dụng kinh tế tư bản tư nhân (tư sản nhỏ) trong một số ngành, nghề"[3] đến được quan tâm "cởi trói" khỏi "tấm áo chật": "Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp không cấm"[4].
Từ địa vị là "một trong những động lực" trong văn kiện Đại hội XI, đến "một động lực quan trọng" trong các văn kiện Đại hội XII, Đại hội XIII. Và đến nay, Nghị quyết số 68-NQ/TW xác lập kinh tế tư nhân là "một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia". Hay không dừng ở mức độ "Xoá bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh" (Đại hội X) mà quán triệt quan điểm: "Xoá bỏ triệt để nhận thức, tư tưởng, quan niệm, thái độ định kiến về kinh tế tư nhân Việt Nam" như quan điểm chỉ đạo tại Nghị quyết này.
Chủ trương là như thế, tuy nhiên trên thực tế, định kiến liên quan kinh tế tư nhân chưa được loại bỏ hoàn toàn. Một trong những rào cản khó vượt qua nhất phải kể đến việc tiếp cận thị trường. Về lý thuyết, kinh tế tư nhân được tham gia sản xuất, kinh doanh tất cả những hàng hoá, dịch vụ không bị cấm hoặc hạn chế theo quy định. Thế nhưng cho đến hiện nay, có nhiều ngành nghề tư nhân vẫn không được tham gia hoặc rất khó để gia nhập "sân chơi" vì "luật bất thành văn" chỉ dành cho các doanh nghiệp nhà nước với tính độc quyền vẫn còn rất cao. Điển hình như lĩnh vực khai thác than, hạ tầng sân bay, đường bộ, bến cảng, luồng tuyến đường thuỷ và hàng hải hay liên quan đến hoạt động bảo trì tuyến đường sắt Bắc - Nam.
Vậy nên, có thể khẳng định rằng, kinh tế tư nhân vẫn đối diện với sự phân biệt đối xử khi đặt vào thế so sánh với kinh tế nhà nước. Các sở, ban, ngành vẫn còn tư duy cục bộ, "thành kiến" với kinh tế tư nhân nên vẫn còn ách tắc trong việc triển khai quy định, quyết sách từ Trung ương. Dưới góc độ lợi ích, sẽ không tránh khỏi việc áp dụng nhiều "biện pháp cạnh tranh" khác nhau để ngăn chặn các doanh nghiệp tư nhân tham gia. Như vậy, "cánh cửa hữu hình" hạn chế doanh nghiệp tư nhân tiếp cận thị trường đã được gỡ bỏ, nhưng đến nay vẫn bị chặn bởi rào chắn vô hình. Có thể thấy, bài toán "tiếp cận thị trường" của kinh tế tư nhân không thể giải quyết bằng việc ban hành một số văn bản chính sách mà cần phải có biện pháp mạnh mẽ, cụ thể để triển khai thực hiện.
Về nhận thức, trong dư luận có nhiều quan điểm sai lầm khi đồng nhất giữa chủ trương phát triển kinh tế tư nhân với việc tư nhân hoá. Từ đó có ý kiến cho rằng muốn tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội phải "xoá bỏ kinh tế tư nhân" phủ nhận sạch trơn đóng góp to lớn của loại hình kinh tế này làm lung lay niềm tin của doanh nghiệp tư nhân vào con đường phát triển trong tương lai.
Và hiện nay, trong lòng xã hội vẫn còn định kiến nặng nề đối với kinh tế tư nhân. Họ đánh đồng kinh tế tư nhân với "bóc lột" và cho rằng các doanh nhân là những nhà tư bản và kinh tế tư nhân chỉ nhằm mục đích làm giàu cho giới doanh nhân, còn người lao động là "cỗ máy in tiền" cho nhà nhà tư bản tư nhân. Nghiêm trọng hơn, lợi dụng chủ trương phát triển kinh tế tư nhân, các thế lực thù địch cố tình khoét sâu định kiến, dẫn dắt dư luận đặt thành phần kinh tế này vào vị trí đối lập, coi đây là kẻ thù của kinh tế nhà nước, kẻ thù của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bằng cách nhìn thiển cận, họ bám chặt không buông luận điểm "xoá bỏ chế độ tư hữu" trong "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" để xuyên tạc bài viết "Phát triển kinh tế tư nhân - Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng" của Tổng Bí thư Tô Lâm và Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân. Các thế lực thù địch cố tình bóp méo sự thật, cho rằng việc "mở rào" cho thành phần kinh tế này phát triển chính là "xoá bỏ thành trì cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản"[5].
2. Nguyên nhân của những định kiến về kinh tế tư nhân
Có thể khẳng định rằng, bên cạnh việc hoạch định đường lối, hoàn thiện thể chế tạo hành lang pháp lý cho kinh tế tư nhân phát triển, Đảng ta luôn kịp thời nắm bắt dư luận, kịp thời phản biện và làm rõ những phát biểu sai trái cản trở sự phát triển của kinh tế tư nhân; quan tâm đến việc củng có hệ thống lý luận, thay đổi nhận thức của toàn xã hội về kinh tế tư nhân. Vậy, nguyên do từ đâu mặc dù các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã đưa ra nhiều tuyên bố, phát biểu mạnh mẽ, và nhiều chính sách hỗ trợ cho kinh tế tư nhân, nhưng những luận điểm sai trái phủ nhận và làm suy yếu kinh tế tư nhân vẫn còn tồn tại?
Đầu tiên, có thể nhận thấy nhiều cán bộ, đảng viên và người dân cho đến thời điểm hiện nay vẫn chưa thể thoát khỏi tư duy của nền kinh tế kế hoạch. Các luận điệu về "xóa bỏ chế độ tư hữu" vốn được dùng để chỉ trích chủ nghĩa tư bản bị áp dụng một cách máy móc đã trở thành công cụ để những người có động cơ đen tối lợi dụng xuyên tạc, chống phá Đảng, chống phá chế độ. Điều này đồng nghĩa với việc đánh thức ký ức lịch sử cũ, vết sẹo xã hội trong quá khứ, khuếch đại gây ảnh hưởng tiêu cực đến tư tưởng của Nhân dân và doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân.
Thứ hai, lý luận cơ bản về kinh tế tư nhân chưa có bước đột phá căn bản, chưa đổi mới cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Nếu chúng ta không sớm hoàn thành đổi mới lý luận cơ bản về phát triển và tăng trưởng kinh tế tư nhân trong thời đại mới, không đề xuất hoàn thiện lý luận mới về kinh tế tư nhân phù hợp hơn với đặc điểm thời đại thì tất yếu sẽ còn những nhận định lỗi thời, sai lầm coi nhẹ kinh tế tư nhân, trở thành "hòn đá tảng" ngăn dòng chảy của lịch sử, cản trở Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên phát triển mới. Vì vậy, có thể thấy, việc phá bỏ ảnh hưởng của học thuyết kinh tế kế hoạch cũ, thúc đẩy đổi mới lý luận về kinh tế tư nhân sớm trở thành nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết đối với công tác chính trị, tư tưởng, đối với sự phát triển kinh tế trong thời đại mới.
Thứ ba, xuất phát từ tâm lý "trâu buộc ghét trâu ăn". Rõ ràng, trong xã hội có một bộ phần quần chúng không thiện cảm với giới doanh nhân giàu có. Và một số đối tượng có động cơ không trong sáng đã lợi dụng khoét sâu khoảng cách giàu nghèo, kích động lòng căm thù người giàu, tấn công vào nền kinh tế tư nhân. Họ không hiểu hoặc cố tình không hiểu rằng của cải do kinh tế tư nhân tạo ra cũng là của cải xã hội. Thông qua hoạt động đóng thuế cho ngân sách, giải quyết việc làm cho người lao động, tạo ra của cải cho xã hội, sự giàu có của doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế này là trụ cột quan trọng đóng góp cho sự nghiệp "dân giàu, nước mạnh".
Thứ tư, chính tình trạng một bộ phận các doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể trong kinh tế tư nhân trong quá trình sản xuất kinh doanh chưa quan tâm đến quyền và lợi ích chính đáng của người lao động, vẫn còn để xảy ra tình trạng nợ lương, tìm mọi cách không thực hiện nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội hay liên quan đến sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng ảnh hưởng sức khoẻ người tiêu dùng, gây bức xúc trong dư luận làm xấu hình ảnh về thành phần kinh tế này. Đặc biệt, có hiện tượng một bộ phận doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế này bị phát hiện tham gia hối hộ, đi "cửa sau" để thiết lập mối quan hệ với các cơ quan có thẩm quyền. Chính vì những khuyết nhược, tồn tại này làm khuôn diện, bộ mặt của nền kinh tế tư nhân trở nên méo mó, làm cho một số đối tượng phủ nhận đóng góp của thành phần kinh tế tư nhân.
3. Xoá bỏ triệt để định kiến về kinh tế tư nhân
3.1. Vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin xoá bỏ triệt để định kiến về kinh tế tư nhân
Cần nghiên cứu kỹ cơ sở chính trị, cơ sở lý luận, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam để có luận cứ chắc chắn nhằm xoá bỏ định kiến, đập tan luận điệu xuyên tạc về kinh tế tư nhân.
- Đối với luận điểm "xoá bỏ kinh tế tư nhân"?
Việc dựa vào luận điểm: "... những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành một luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu"[6] trong tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" để đòi xoá sổ kinh tế tư nhân ở Việt Nam không chỉ là sự hiểu lầm nghiêm trọng về các tác phẩm kinh điển mà còn thể hiện lối nghĩ cứng nhắc, giáo điều về chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trước hết, cần phải hiểu rằng, điều C. Mác - Ph. Ăng-ghen muốn đề cập khi nói đến "xóa bỏ chế độ tư hữu" không đồng nghĩa với việc xóa bỏ bất kỳ "hình thức sở hữu tư nhân" nào hay toàn bộ thành phần kinh tế tư nhân mà cái cần xoá bỏ về lâu về dài chính là "chế độ sở hữu tư sản". Luận điểm trong tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản", C. Mác và Ph. Ăng - ghen đã chỉ điểm: "đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ chế độ sở hữu nói chung, mà là xóa bỏ chế độ sở hữu tư sản"[7]. Như vậy, kinh tế tư nhân không phải là đối tượng cần phải "loại bỏ" hay "xoá bỏ" khỏi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh đó, các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định: "Chủ nghĩa cộng sản không tước bỏ của ai cái khả năng chiếm hữu những sản phẩm xã hội cả. Chủ nghĩa cộng sản chỉ tước bỏ quyền dùng sự chiếm hữu ấy để nô dịch lao động của người khác"[8]. Như vậy, có thể hiểu rằng, cái mà chủ nghĩa cộng sản hướng tới xóa bỏ là chế độ sở hữu tư sản với bản chất cố hữu là "bóc lột giá trị thặng dư của lao động làm thuê, chứ tuyệt nhiên không xóa bỏ mọi hình thức sở hữu nói chung, trong đó có sở hữu tư nhân, nền tảng của kinh tế tư nhân"[9].
Ngay cả V.I.Lê-nin cũng có chỉ điểm rằng chủ nghĩa xã hội chỉ muốn xoá bỏ quyền sở hữu của bọn địa chủ và tư bản chứ không hề xóa bỏ tất cả các quyền sở hữu của quần chúng nhân dân lao động. Lênin cũng đã chỉ rõ "đặc điểm kinh tế nổi bật nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế".
Vì vậy, trong thời đại mới, việc vẫn dùng cụm từ "xóa bỏ chế độ tư hữu" để phủ nhận kinh tế tư nhân là giáo điều và cứng nhắc thể hiện sự hiểu biết không thấu đáo về chủ nghĩa Mác - Lênin. Cùng với sự cải thiện không ngừng của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định rõ vị thế của mình trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ưu điểm của kinh tế tư nhân trong việc tăng việc làm và cung cấp dịch vụ là không phải bàn cãi. Vậy nên, đối với thành phần kinh tế này không nên có sự phân biệt đối xử hay bị đặt dưới góc nhìn thù địch đòi "xóa bỏ" mà cần được đề cao, khuyến khích, tạo mọi điều kiện để phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
- Đối với luận điểm coi phát triển kinh tế tư nhân là giải pháp tạm thời, kết thúc thời kỳ quá độ, kinh tế tư nhân cần "thoái lui" khỏi thị trường?
Hiện nay, có nhiều quan điểm cho rằng chủ trương phát triển kinh tế tư nhân là tạm thời. Điều đó đồng nghĩa với việc sau khi đã hoàn thành vai trò hỗ trợ phát triển nền kinh tế, kinh tế tư nhân buộc phải bị xoá bỏ hay cho rằng để "bảo vệ thành trì xã hội chủ nghĩa" cần để kinh tế tư nhân dần thoái lui khỏi thị trường. Chính luận điểm này làm cho các doanh nhân bất an, luôn mang nặng tâm lý lo lắng kinh tế tư nhân là đối tượng"nuôi vỗ béo rồi thịt".
Để làm rõ vấn đề này cần căn cứ vào những chỉ dẫn trong tác phẩm "Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản". Khi trả lời câu hỏi: "Liệu có thể thủ tiêu chế độ tư hữu ngay lập tức được không?", câu trả lời nhận được từ Ph. Ăng-ghen là: "Không, không thể được, cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu..."[10]. Chúng ta đã từng nóng vội và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã nhìn thẳng vào khuyết điểm: "Cuộc sống cho ta một bài học thấm thía là không thể nóng vội làm trái quy luật. Nay phải sửa chữa lại cho đúng như sau: đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn luôn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất"[11].
Như vậy, có thể nhận thấy đã có thời điểm chúng ta không tuân thủ những chỉ dẫn của Chủ nghĩa Mác - Lênin về xóa bỏ chế độ tư hữu nên đã có tư tưởng sai lầm khi cho rằng càng đẩy mạnh quốc doanh hoá, tập thể hoá, càng mau chóng xoá bỏ kinh tế tư nhân càng tiến nhanh đến chủ nghĩa xã hội. Để nắn chỉnh sai lầm về nhận thức, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định, phát triển kinh tế tư nhân không phải là biện pháp tạm thời cho phát triển kinh tế ở thời kỳ quá độ hay giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội mà là chính sách lâu dài cho phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Điều này đã được ghi nhận tại Hội nghị Trung ương 6, khóa VI: "chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội". Hiến pháp năm 2013 cũng xác định: "Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế"[12]. Gần đây nhất, Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân đã nhận định đây là "một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế".
Đây là lời phản biện đanh thép nhất dành cho một số cá nhân lợi dụng câu này trong "Tuyên ngôn" để hạ thấp chính sách cải cách, phát triển của chúng ta, luôn đưa ra những nhận xét không đúng về kinh tế tư nhân, cho rằng nếu phát triển kinh tế tư nhân đồng nghĩa với việc chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Việc dựa trên lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để hiểu rõ về kinh tế tư nhân là cách gỡ nút thắt hiệu qủa nhất nhằm giảm thiểu lo lắng, trút bỏ gánh nặng, qua đó tăng cường lòng tin, thúc đẩy tinh thần, phấn đấu cống hiến nhiều hơn cho sự thịnh vượng của đất nước.
Về luận điểm đồng nhất phát triển kinh tế tư nhân với tư nhân hoá, và coi đây là động thái "phá hoại thành trì cuối cùng của chủ nghĩa xã hội"?
Một trong định kiến nặng nề về kinh tế tư nhân đó là đồng nhất giữa chủ trương phát triển kinh tế tư nhân và tư nhân hoá. Cần phân định rõ, kinh tế tư nhân, sở hữu tư nhân là một hiện tượng kinh tế, trong khi "tư nhân hóa" thuộc về bản chất kinh tế. Thêm từ "hoá" có nghĩa là thay đổi thành một bản chất, trạng thái, thuộc tính, hệ giá trị khác. Và nền kinh tế của Việt Nam là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không có nghĩa là thả nổi hoàn toàn cho thị trường mà trao quyền quyết định trong phân bổ nguồn lực theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, chúng ta thực hiện chế độ đa sở hữu với nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại, hỗ trợ nhau cùng phát triển. Và kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, nắm giữ huyết mạch của nền kinh tế quốc dân, kiểm soát những lĩnh vực liên quan đến cơ sở hạ tầng và các ngành công nghiệp trụ cột như năng lượng, giao thông vận tải, truyền thông và tài chính. Và thành phần kinh tế này ngoài việc giúp Chính phủ thực hiện điều tiết để nền kinh tế phát triển bền vững, ổn định, đồng bộ, kinh tế nhà nước còn có nhiệm vụ tạo nền tảng kinh tế bảo đảm công bằng xã hội, phát huy đầy đủ vai trò của kinh tế nhà nước trong ổn định và tăng việc làm, bảo đảm phúc lợi xã hội và cung ứng dịch vụ công. Đây cũng là trụ cột quan trọng giúp kéo gần khoảng cách giữa đồng bằng và miền núi, vùng sâu, vùng xa, giữa đô thị và nông thôn.
Vậy nên, cần phải hiểu rằng khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân không có nghĩa là chủ trương "tư nhân hóa", càng không phải là "phá bỏ thành trì của chủ nghĩa xã hội" như các thế lực xuyên tạc để gây mất niềm tin và Đảng, vào chế độ, mà phải nhìn nhận kinh tế tư nhân bằng cái nhìn khách quan, không nên dưới lăng kính thù địch, hạ thấp kinh tế tư nhân, hay tùy tiện gắn mác "tư nhân hóa".
Đối với việc "dán nhãn" kinh tế tư nhân là bóc lột, là kẻ thù của chủ nghĩa xã hội
Qua phân tích, có thể nhận thấy kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về cơ bản khác với kinh tế tư bản chủ nghĩa. Nền kinh tế tư bản là nền kinh tế chỉ tạo ra của cải cá nhân, họ chỉ bảo vệ lợi ích của thiểu số, của các nhà tư bản. Trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam, kinh tế tư nhân không chỉ là tài sản cá nhân của các doanh nhân mà còn là tài sản xã hội, cả kinh tế nhà nước hay kinh tế tư nhân đều phải gánh vác sứ mệnh lịch sử, cùng tạo ra của cải xã hội và cùng nhau thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh".
Trong gần 40 đổi mới, với "940 nghìn doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước và sử dụng khoảng 82% tổng số lao động"[13], kinh tế tư nhân đã chứng minh sức nặng và vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, tích lũy nguồn lực tài chính, nâng cao năng suất lao động xã hội và tăng thu nhập, cải thiện đời sống Nhân dân. Ngày nay, kinh tế tư nhân đã trở thành xương sống cho hoạt động đổi mới, ứng dụng khoa học, là đầu tàu cho một số lĩnh vực công nghệ then chốt trở thành điểm tựa vững chắc, nguồn lực, yếu tố cốt lõi cho phát triển kinh tế đất nước. Vậy nên, kinh tế tư nhân không những không phải là "kẻ thù" của chủ nghĩa xã hội mà còn là chủ thể hỗ trợ đắc lực cho chủ nghĩa xã hội.
Việc cho đảng viên tham gia làm kinh tế tư nhân đã góp phần khẳng định Việt Nam thừa nhận, xác lập địa vị chính đáng về mặt pháp lý cho kinh tế tư nhân không đồng nghĩa với công nhận vai trò thống trị của "quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa" hay chính thức mở đường cho bóc lột được hiện diện trong các quan hệ kinh tế ở nước ta. Đây cũng là bằng cứ bảo đảm để đập tan lo lắng của một bộ phận doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân.
Bên cạnh đó, ngoài việc vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin để giải thích cặn kẽ cần đẩy mạnh hoạt động đổi mới lý luận về thành phần kinh tế tư cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Trong đó, chú trọng làm rõ vai trò, đóng góp, tính chất và bản chất của kinh tế tư nhân, phản ánh sự thay đổi về mối quan hệ giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân và giải thích thấu đáo vấn đề nảy sinh trong tiến trình phát triển của kinh tế tư nhân. Chính điều này sẽ góp phần xoá bỏ định kiến, thay đổi tư duy, nhận thức, ứng xử đối với kinh tế tư nhân.
3.2. Hướng dẫn kinh tế tư nhân phát triển đúng định hướng trong kỷ nguyên mới
Đảng ta đang thực hiện sứ mệnh lịch sử, dẫn dắt dân tộc dốc toàn lực tiến vào kỷ nguyên mới. Vậy nên, ngoài việc xoá bỏ định kiến về kinh tế tư nhân cần hướng dẫn kinh tế tư nhân phát triển đúng định hướng để xây dựng, giữ gìn, phát triển hình ảnh lành mạnh của các doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể thuộc thành phần kinh tế tư nhân cũng là cách thay đổi nhận thức về thành phân kinh tế này. Cụ thể, cần quan tâm thực hiện một số nội dung sau đây:
Một là, đẩy mạnh công tác xây dựng, phát triển Đảng trong thành phần kinh tế tư nhân
Đây là yếu tố then chốt bảo đảm kinh tế tư nhân luôn phát triển đúng định hướng, phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Công tác xây dựng Đảng sẽ tạo niềm tin, động lực mạnh mẽ cho sự phát triển lành mạnh của kinh tế tư nhân, hướng doanh nghiệp quan tâm đến việc chăm lo đời sống của người lao động và đẩy mạnh công tác vì cộng đồng. Bên cạnh đó, đẩy mạnh xây dựng Đảng trong kinh tế tư nhân giúp phát huy được vai trò gương mẫu, dẫn dắt của đảng viên trong doanh nghiệp, giúp kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ hơn, có định hướng tốt trong giải quyết các khó khăn trong quá trình phát triển doanh nghiệp.
Hai là, cần chú trọng bồi dưỡng lòng yêu nước, xác lập tinh thần phụng sự quê hương, đất nước
Doanh nhân phải có ý thức gắn kết sự nghiệp phát triển doanh nghiệp với sự phồn vinh của đất nước, gắn việc làm giàu của bản thân với sứ mệnh vì cộng đồng, vì hạnh phúc của Nhân dân. Nếu những doanh nhân thiếu lòng yêu nước và không gắn doanh nghiệp do mình làm chủ với lợi ích quốc gia, dân tộc sẽ khó phát triển doanh nghiệp lớn mạnh vượt qua nhiều khó khăn, thách thức. Với tư cách là động lực quan trọng nhất, lực lượng chủ chốt thúc đẩy công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân cần có ý thức đảm nhận sứ mệnh lịch sử trong kỷ nguyên mới, đồng hành cùng dân tộc góp phần hiện thực hoá mục tiêu mà Đảng ta đã đề ra.
Ba là, cần tập trung bồi dưỡng năng lực quản lý
Trong sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường, nếu muốn tồn tại, nâng cao khả năng cạnh tranh buộc phải trang bị kiến thức, kỹ năng quản lý và điều hành cho doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế này. Thông qua việc nhận thức đầy đủ, chuẩn bị kỹ càng, kinh tế tư nhân với đầu tàu là các doanh nghiệp mới có thể nắm bắt được cơ hội, chủ động ứng phó với những tình huống bất thường, tránh bị đào thải trong môi trường cạnh tranh khốc liệt.
Bốn là, cần quán triệt tinh thần "thượng tôn pháp luật"
Xét về bản chất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế pháp quyền và đây là yếu tố càng được nhấn mạnh khi bước vào kỷ nguyên mới. Một doanh nghiệp dù lớn đến đâu cũng phải tuân thủ pháp luật và các quy định, quy tắc có liên quan trong hoạt động kinh tế thị trường. Đây chính là nền tảng, là mấu chốt bảo đảm sự phát triển lành mạnh và ổn định lâu dài của doanh nghiệp tư nhân.
Năm là, nâng cao trách nhiệm đối với xã hội, đối với cộng đồng
Có thể khẳng định rằng, việc đóng góp cho xã hội không chỉ là yêu cầu, nhiệm vụ của doanh nghiệp trong việc chủ động thực hiện trách nhiệm xã hội mà còn là điều kiện tiên quyết tất yếu để hỗ trợ cho sự phát triển bền vững lâu dài của doanh nghiệp. Việc nâng cao trách nhiệm đối với cộng đồng xã hội được thể hiện qua việc làm cụ thể như đóng thuế, bảo vệ môi trường, quan tâm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động và thực hiện các hoạt động vì cộng đồng, hỗ trợ các địa phương, hoàn cảnh khó khăn.
Tóm lại, vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ trương, đường lối của Đảng để xoá bỏ triệt để định kiến về kinh tế tư nhân sẽ giúp thanh lọc dư luận xã hội, củng cố niềm tin, kiến tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế tư nhân. Đây là điều kiện tiên quyết để tháo gỡ điểm nghẽn, tạo xung lực mới cho kinh tế tư nhân phát triển góp phần đưa đất nước thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, tiến nhanh, tiến mạnh vào kỷ nguyên phát triển mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
ThS. Trương Thị Điệp
Trường chính trị TP. Đà Nẵng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, 13,23;
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2010
3. Bộ Chính trị (2025), Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân;
4. Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006;
5. Tô Lâm (2025), Phát triển kinh tế tư nhân - Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng;
6. V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 36;
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Khóa VI, VII, VIII, IX, X), Phần 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010;
8. Vũ Văn Phúc (2020), Vận dụng lý luận về sở hữu của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
[1]. Thành Yến (2024): Từ điển tiếng Việt, Nxb Dân trí, tr.534.
[2]. Fischer (1992): Những khái niệm cơ bản của tâm lí học xã hội.
[3]. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
[4]. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.
[5]. Bài đăng trên trang RFA ngày 26/3/2025: "Nghị quyết số 68 xoá bỏ thành trì cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản".
[6]. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 616.
[7]. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 615.
[8]. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 618.
[9] Nguyễn Đức Thắng (2011), "Quan điểm của C. Mác về sở hữu và việc vận dụng ở Việt Nam dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XI của Đảng", Tạp Chí Cộng sản.
[10]. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 469
[11]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (Khóa VI, VII, VIII, IX, X), Phần 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 55
[12]. Khoản 1 Điều 51 Hiến pháp năm 2013.
[13] Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị