Lý tưởng, lẽ sống của Người được hình thành từ rất sớm. Người sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước. Chịu cảnh mồ côi mẹ từ nhỏ. Cha tuy đỗ phó bảng, làm quan một thời gian nhưng chán cảnh quan trường nên cũng lưu lạc nhiều nơi, vào đến tận Đồng Tháp và sống những ngày cuối đời ở đó. Sống trong hoàn cảnh đất nước chìm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thời niên thiếu và thanh niên của Người đã chứng kiến nỗi khổ cực của đồng bào. Với tinh thần dũng cảm, yêu nước, thương dân vô hạn, năm 1911, Nguyễn Tất Thành đã rời Tổ quốc sang các nước phương Tây để tìm đường giải phóng dân tộc.
Con đường đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với con đường giải phóng dân tộc chân chính nhất, đánh dấu sự trưởng thành về nhận thức lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh đó là khi Người đọc Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa "Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta"[1].
Cho dù hoạt động ở bất cứ nơi đâu, nắm giữ bất cứ trọng trách nào mà Đảng và Nhà nước giao phó, thì suốt cuộc đời Người chỉ có một "ham muốn", "ham muốn" đến tột bậc như Người tâm niệm: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành"[2].
Cơm ăn, áo mặc, học hành... là những quyền thiêng liêng và cơ bản nhất của mỗi con người. Nó cũng giống như quyền độc lập, tự do của mỗi dân tộc trên thế giới, cái "quyền" mà dân tộc Việt Nam ta đã đổ biết bao nhiêu xương máu, đánh đuổi bao nhiêu kẻ thù hùng mạnh mới giành được.
Và rồi "ham muốn" của Người cũng đã thành sự thật. Mùa xuân năm 1975, Đất nước ta được hoàn toàn giải phóng, Nam Bắc sum họp, non sông thu về một mối, nhân dân ta được sống trong hòa bình, tự do. Nhưng Bác thì đã ra đi, không kịp chứng kiến giây phút lịch sử ấy.
Người đã đi xa nhưng những di huấn của Người cho cách mạng nước ta vẫn còn nguyên giá trị, và trong thời kỳ đất nước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội hiện nay ta càng thấy vô cùng ý nghĩa. Đặc biệt là quan niệm của Người về lẽ sống ở đời và làm người trong giai đoạn hiện nay, thể hiện rất rõ trong tác phẩm "Di chúc" mà Người để lại cho Đảng và nhân dân trước lúc Người đi xa. Người đã để lại tình thương yêu và những lời căn dặn tâm huyết cho nhân dân ta, cho Đảng và bạn bè gần xa. Tuy sức khỏe giảm sút, nhưng ở Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nồng cháy một tình yêu lớn và tinh thần trách nhiệm cao với đồng chí, đồng bào, toàn dân tộc, với cách mạng Việt Nam và với cách mạng thế giới.
Nói về Đảng trước tiên, Người căn dặn: "Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác... Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau... Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân"[3].
Thực hiện Di chúc của Người, Đảng ta luôn khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng chính trị của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ một Đảng Cộng sản cầm quyền, sau Lênin, đã nhấn mạnh việc Đảng Cộng sản trở thành đảng cầm quyền cùng những lo lắng, răn đe. Không phải chỉ trong Di chúc, mà hầu hết những tác phẩm của Hồ Chí Minh từ năm 1945, khi Đảng Cộng sản bắt đầu cầm quyền sau Cách mạng tháng Tám, ngay sự cầm quyền ấy chưa hoàn toàn trong phạm vi cả nước, vừa xây dựng chính quyền vừa kháng chiến, Người đã luôn luôn nhắc đến việc chính quyền do Đảng Cộng sản phải là chính quyền vì dân, do dân, gắn bó với dân, trung thành với dân, người đầy tớ trung thành của dân.
Bức thư đầu tiên Người gửi các đồng chí Bắc Bộ năm 1947, khi kháng chiến chống Pháp mới bắt đầu vài tháng và khi mà các quốc gia xã hội chủ nghĩa chưa ai cảnh giác con đường hiểm nguy của Đảng Cộng sản cầm quyền mà thoát ly nguyên lý cộng sản cơ bản - tức phục vụ dân, lấy dân làm gốc - thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã báo động với ý thức và lời lẽ vừa thiết tha vừa nghiêm khắc, lấy sự việc ngay trong đời sống hằng ngày. Cho nên, bài học lớn nhất mà chúng ta rút ra từ Di chúc của Người chính là phần cốt lõi này.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất, đoàn kết, gắn bó với nhân dân, đại diện cho quyền lợi của giai cấp và của dân tộc, được nhân dân tin yêu, đùm bọc, ủng hộ, giúp đỡ.
Tư cách, phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của mọi công dân không phân biệt bất cứ ai mà Bác thường xuyên căn dặn, nhắc nhở là cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.
Theo Bác Hồ:
Người có nhân là người có tấm lòng nhân hậu, tình thương yêu, giúp đỡ đồng bào, đồng chí. Nhân là tâm và tâm là nhân.
Người có nghĩa là người có chí khí, lòng dạ ngay thẳng, không có tư tâm, tà tâm, không lắt léo, không uốn cong cuộc đời, không luồn cúi, xu nịnh, xu thời. Trọng nghĩa là đức tính của con người.
Người có trí là người có đầu óc sáng suốt, trong sạch, biết xem người, biết xét việc, biết nhân tình thế thái mà liệu bề ứng xử.
Người có dũng là người dũng cảm, gan góc, có gan bảo vệ lẽ phải, có gan đấu tranh với những việc làm sai trái, không sợ khó, không sợ khổ, có gan chịu đựng để mưu cầu việc lớn.
Người có liêm là người không tham địa vị, tiền tài, sự quyến rũ mềm yếu, quang minh chính đại, sống cuộc đời liêm khiết, tử tế, đàng hoàng.
Cần là cần cù, cần mẫn trong công việc, chịu thương chịu khó, một nắng hai sương, lao động vì lợi ích chung và lợi ích riêng mình.
Kiệm là tiết kiệm, không xa hoa lãng phí, không tiêu xài bừa bãi, không lấy của công làm của riêng; tiết kiệm nhưng không bủn xỉn, cái gì đáng tiêu dù phải mất số tiền lớn cũng phải tiêu, cái gì không đáng tiêu dù chỉ là một đồng cũng không được tiêu.
Người căn dặn cho cán bộ, đảng viên một luận điểm quan trọng như sau: "Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ cộng sản mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước"[4], "Nếu chính mình tham ô bảo người ta liêm khiết có được không? Không được. Mình trước hết phải siêng năng trong sạch thì mới bảo người ta trong sạch, siêng năng được"... Bác Hồ có nhắc nhở rằng trong học tập, lao động, công tác cũng như trong cuộc sống đời thường của từng người ở xã hội ta vào thời kỳ cách mạng nào cũng thế, nếu sự bất liêm, bất chính, lãng phí, tham ô, lười biếng, vô trách nhiệm, thu vén cá nhân, ích kỷ vì lợi ta hại người… còn lẩn khuất đâu đó bằng sự dối trá với chính mình, với tập thể và cộng đồng thì đó là "kẻ thù nội xâm" nguy hiểm khôn lường.
Như Bác đã dạy: "Nói miệng, ai cũng nói được. Ta cần phải thực hành. Kháng chiến, kiến quốc, ta phải cần kiệm. Nhưng tự mình phải cần và kiệm trước đã. Trước hết, mình phải làm gương. Làm gương về cả ba mặt: Tinh thần, vật chất và văn hóa. Không có gì là khó. Khó như cách mạng mà ta đã làm được và đã thành công. Muốn làm được ta phải: quyết tâm, trí tâm và đồng tâm. Ta nhớ ba chữ ấy, thực hành làm gương nêu ba chữ ấy lên, tất cả các đồng chí phải thành công"[5].
Mục đích xây dựng một xã hội đạo đức, dân chủ, công bằng, văn minh, tiến bộ là lý tưởng sống của Hồ Chí Minh. Người lo lắng về một xã hội vô đạo đức, lo lắng, trăn trở sự thoái hóa, biến chất làm cho đội ngũ cán bộ vô đạo đức, thoái hóa, biến chất, vì vô đạo đức sẽ là nguyên nhân sâu xa biết bao tai họa mà chính Người đã được chứng kiến nhiều nơi trên thế giới. Vì vậy, vấn đề đạo đức xã hội, đạo đức con người là một vấn đề mà Người suốt đời quan tâm.
Tiếp theo trong Di chúc, Bác căn dặn thế hệ trẻ:
Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng", vừa "chuyên". Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết.
Người chỉ ra rằng muốn giáo dục cộng sản cho đoàn viên thanh niên phải gắn liền việc học tập, rèn luyện của họ với cuộc đấu tranh chung của xã hội. Người nói: "Đoàn thanh niên cộng sản chỉ xứng đáng với danh hiệu của nó là đoàn thể của thế hệ cộng sản trẻ tuổi, nếu biết gắn từng bước học tập, giáo dục và rèn luyện của mình với việc tham gia cuộc đấu tranh chung của những người lao động chống lại bọn bóc lột". Người cũng dạy: "Giáo dục thanh niên không thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những cuộc đấu tranh của xã hội".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành rất nhiều tình cảm lớn lao cho thế hệ trẻ, thế hệ mà Người khẳng định sẽ là người chủ tương lai, là rường cột của nước nhà. Điều đó thể hiện rất rõ qua các cuộc gặp gỡ và qua nhiều bài viết của Người dành cho thế hệ trẻ (theo Người, thế hệ trẻ bao gồm: thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, trong đó thanh niên là lực lượng quan trọng nhất), đồng thời chính Người tổ chức huấn luyện, lãnh đạo và rèn luyện phát triển lực lượng thanh niên cách mạng Việt Nam. Người không những chỉ ra khả năng cách mạng to lớn của tuổi trẻ trong cách mạng mà Người còn chỉ ra tiềm năng to lớn của tuổi trẻ trong công cuộc kiến thiết xây dựng nước nhà. Trong Thư gửi các em học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, tháng 9/1945, Người gửi gắm niềm tin tưởng của mình vào thế hệ trẻ: "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em"[6]. Năm 1947, Ngư khẳng định: "Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy, nước nhà thịnh hay suy, mạnh hay yếu, một phần lớn là do các thanh niên".
Hồ Chí Minh xem xét thanh niên một cách toàn diện, thấy rõ vị trí, vai trò của thanh niên: "Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai"[7], vì vậy, Người yêu cầu, đòi hỏi thanh niên phải tự giác rèn luyện, không ngừng học tập, xung phong gương mẫu trong công việc. Gắn yêu cầu đặt ra đối với thanh niên, hiểu rõ vị trí, vai trò to lớn của thanh niên, Người đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục cho thanh niên và chỉ ra tầm quan trọng của việc giáo dục, bồi dưỡng, phát huy vai trò của thế hệ trẻ trong mọi thời kỳ cách mạng. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra yêu cầu cho Đảng đối với công tác giáo dục thanh niên và xem đây là trách nhiệm của Đảng, các cơ quan giáo dục, đến các đoàn thể quần chúng: "Đoàn viên, thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".
Vấn đề quan tâm hàng đầu của bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ. Người căn dặn thanh niên phải: "Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội, yêu lao động, yêu khoa học và yêu kỷ luật"[8].
Việc giáo dục, bồi dưỡng cho một thế hệ là công việc hết sức công phu và bền bỉ, vì vậy, Người quan niệm việc giáo dục, đào tạo và rèn luyện cho thế hệ trẻ là sự nghiệp "trồng người" và Người nêu tư tưởng chiến lược: "Vì lợi ích 10 năm trồng cây, vì lợi ích 100 năm trồng người". Công tác giáo dục phải tạo nên một thế hệ vừa giỏi chuyên môn, có trình độ cao, phù hợp với sự phát triển của xã hội; đồng thời phải có đạo đức cách mạng, phải trở thành là lực lượng "vừa hồng, vừa chuyên".
Chúng ta đang có nhiều tấm gương đảng viên, đoàn viên và cán bộ được dân tin, dân yêu, được như vậy là do các đồng chí đã tự mình rèn luyện và thực hiện tốt lẽ sống mình vì mọi người, trong đó lời nói luôn đi đôi với việc làm, lấy việc mình làm để cổ vũ người khác.
Về việc riêng, Người viết: "Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân"[9]. Đây là phần di chúc ngắn nhất trong bản di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Toàn bản di chúc là để lại cho "đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi"[10].
Ở phần này chúng ta có thể thấy rằng nếu "Phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác…" thì Bác Hồ "sẽ không có điều gì phải hối hận…" tuy nhiên Người chỉ tiếc một điều đó là: "chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa." Qua đây thể hiện tấm lòng hết mình tận tụy phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc của Người.
Từ tấm gương của Người, Trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Ðảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật. Phải đi sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ.
Các thế hệ người Việt Nam tiếp tục học tập và đi theo con đường Bác đã chọn, để sống sao cho xứng đáng với tổ tiên, cha anh; để sánh vai với các cường quốc năm Châu, hội nhập, phát triển với thế giới hiện đại, văn minh; và để thực hiện bằng được ham muốn tột bậc của Bác là "đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Ham muốn khát vọng đó ngày nay chính là mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Văn hóa làm người Hồ Chí Minh là những điều bình dị mà ai cũng có thể học tập và làm theo. Đồng thời cũng là tầm cao của dân tộc và thời đại đòi hỏi phải phấn đấu suốt đời mới đạt được. Nhất là giá trị lớn lao, bền vững về tấm gương dẫn đường, soi sáng của người đứng đầu, luôn có chí tiến thủ, cách mạng triệt để và không ngừng hoàn thiện nhân cách con người. Nó luôn là những chuẩn mực, thước đo chính xác nhất, cơ bản nhất để mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân ta hướng đến, soi vào hoàn thiện bản thân mình.
Đảng ta luôn khẳng định, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh mãi mãi soi đường, dẫn dắt cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam hôm nay và mai sau. Mỗi cán bộ, đảng viên cần ghi nhớ một lời tâm niệm của Bác: "Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân không cần đến nữa"[11]. Không chỉ cán bộ, đảng viên phải học Bác mà mọi người Việt Nam rất cần phải học Bác để trở thành người tốt hơn, làm việc và thành đạt hơn, đóng góp nhiều hơn cho gia đình, quê hương, đất nước. Như một lẽ giản dị Bác đã dạy: "Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của Đời sống mới, nền tảng của Thi đua ái quốc" như "Trời có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương Đông, Tây , Nam , Bắc. Người có bốn đức Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Thiếu một đức thì không thành người"[12].
Học Bác phải sáng tạo, vì cách mạng là thay cũ đổi mới, luôn đòi hỏi sáng tạo mới thành công. Như Bác đã học Mác - Lênin là học cái tinh thần xử lý mọi việc. Bác đã bổ sung cơ sở cho học thuyết Mác, tiếp tục hoàn chỉnh đề cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, lãnh đạo cách mạng ở thuộc địa giành thắng lợi trước cách mạng ở chính quốc. Cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh chống thực dân, đế quốc là sáng tạo vĩ đại của Đảng ta và nhân dân ta. Ngày nay, chúng ta tiếp tục xây dựng và bảo vệ đất nước theo con đường Bác đã chọn. Đây thật sự là cuộc đổi đời chưa từng có trong lịch sử, vừa mới mẻ, chưa có kinh nghiệm, vừa triệt để trong hoàn cảnh thế giới biến động phức tạp. Điều đó càng đòi hỏi đội ngũ tiên phong phải có trí tuệ và bản lĩnh rất cao, đòi hỏi phải phát huy sức mạnh sáng tạo vĩ đại hơn bao giờ hết của cả dân tộc, nhằm hiện thực hóa mục tiêu có được xã hội XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đồng thời cũng là hiện thực hóa nguyện ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Giáo dục đạo đức cách mạng trong tình hình mới là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ "vừa hồng, vừa chuyên", đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Giáo dục đạo đức cách mạng trong tình hình mới hiện nay tập trung vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, vững mạnh bằng cách thực hiện các chuẩn mực đạo đức như trung thành, tận tụy, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân. Các phương pháp bao gồm tự giác tu dưỡng, rèn luyện theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đẩy mạnh phê bình và tự phê bình, và đấu tranh kiên quyết với suy thoái, tham nhũng.
Với trách nhiệm của một giảng viên giảng dạy lý luận chính trị ở Trường chính trị Lê Duẩn tỉnh Quảng Trị, soi chiếu vào các chuẩn mực đạo đức cách mạng theo Quy định số 144-QĐ/TW (ngày 9/5/2024) Quy định chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên giai đoạn mới của Bộ Chính trị, người giảng viên lý luận chính trị ở Trường Chính trị Lê Duẩn trong giai đoạn mới cần thường xuyên bồi dưỡng đạo đức cách mạng, tích cực tham gia học tập các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị như: Cao cấp lý luận chính trị, bồi dưỡng kinh điển Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các lớp cập nhật kiến thức, các lớp bồi dưỡng kiến thức chuyên ngành, trong đó kết hợp bổ sung kiến thức về chính sách, pháp luật của Nhà nước, lớp bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Để người giảng viên lý luận chính trị ở Trường Chính trị Lê Duẩn thực sự là một tấm gương sáng để học viên soi chiếu vào./.
ThS.GVC Nguyễn Quang Trung
Khoa xây dựng Đảng, Trường Chính trị Lê Duẩn
[1], Hồ Chí Minh: Toàn tập, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t1, tr.28.
[2], Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t1, tr.28.
[3], Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t15, tr.621.
[4], Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t6, tr.16.
[5], Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t4, tr.171.
[6], Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t4, tr.35.
[7], Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t13, tr.298.
[8], Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t11, tr.401.
[9], Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t15, tr.615.
[10], Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t15, tr.621.
[11], Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t7, tr.269.
[12], Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t6, tr.117.