Văn hóa luôn phải đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế và xã hội

Thứ hai, 14/04/2025 - 16:05

Đề cương Văn hóa Việt Nam do đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo và được thông qua tại Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương, tháng 2/1943 là văn kiện có tính cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa, đề cập toàn diện và sâu sắc những vấn đề có tính chất nền tảng về nguyên tắc, phương châm, phương hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

 Trong đó xác định rõ nội dung, phạm vi, vị trí, vai trò của văn hóa trong cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, đồng thời xác định ba nguyên tắc: Dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa trong xây dựng nền văn hóa mới. Kế thừa quan điểm đó, Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 1946, Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021 đều khẳng định quan điểm xuyên suốt của Đảng là văn hóa phải được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, "văn hóa soi đường cho quốc dân đi", xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Tầm nhìn chiến lược, sâu rộng của Đảng ta

Ra đời trong bối cảnh đất nước chưa giành được độc lập, tự do, Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943 là một văn kiện quan trọng của Đảng ta, chứa đựng những giá trị nổi bật, mang tính định hướng sâu sắc, là ngọn đuốc soi đường cho sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đây là bản tuyên ngôn, cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa, có ý nghĩa lịch sử sâu sắc và giá trị to lớn về nhiều mặt đối với việc định hình, định hướng tư duy lý luận của Đảng về văn hóa nói riêng và đối với tiến trình cách mạng Việt Nam nói chung trong suốt hơn 80 năm qua.

Nhấn mạnh 3 thành tố đặc biệt quan trọng của văn hóa, gồm tư tưởng, học thuật và nghệ thuật cùng mối quan hệ biện chứng giữa các thành tố, trong đó, tư tưởng là thành tố cơ bản nhất, đề cương là một tổ hợp các vấn đề căn cốt nhất của nền văn hóa Việt Nam mới, với sự phác thảo hai trụ cột quan trọng nhất của văn hóa, đó là đời sống văn hóa và con người với tư cách là chủ thể sáng tạo ra nền văn hóa và hệ giá trị của nó; tiếp cận truyền thống các giai đoạn trong lịch sử văn hoá Việt Nam, nhiệm vụ xây dựng nền văn hoá nhân dân của các dân tộc; quan hệ giữa văn hoá với kinh tế, chính trị và xác định văn hóa là một trong ba mặt trận cách mạng (chính trị, kinh tế, văn hoá)…

Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943 cũng xác định rõ, văn hóa là một mặt trận và Đảng phải là người lãnh đạo phong trào văn hóa thì mới hoàn thành được sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới. Quan điểm này của Đề cương đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần, mang tính định hướng sâu sắc. Trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa đăng trên Báo Cứu quốc, ngày 5/1/1952, Người chỉ rõ: "Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy". Và để đặt nền móng và định hướng xây dựng một nền văn hóa cách mạng mới, Văn hóa Việt Nam năm 1943 nhấn mạnh cần kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn hai nhiệm vụ "xây" và "chống".

Đặc biệt, Đề cương đã đề cập ba phương châm bao trùm, trường tồn của cuộc vận động văn hóa và nền văn hóa mới Việt Nam, đó là: Dân tộc hóa, khoa học hóa và đại chúng hóa. Trong đó, dân tộc hóa là chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa, làm cho văn hóa trực tiếp phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, làm cho trí thức có lòng tự hào, dũng cảm đứng lên nhận trách nhiệm của mình trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển nền văn hóa mới Việt Nam. Ba nguyên tắc này đã trở thành phương châm, mục tiêu hành động, là quan điểm xuyên suốt trong quá trình cách mạng và xây dựng nền văn hóa mới của Đảng và Nhà nước ta. Ở đây, ý nghĩa to lớn của Đề cương chính là đặt vấn đề, xác định rõ ba phương châm, mà về thực chất cũng là ba tính chất gắn với truyền thống dân tộc, thuộc về nhân dân và thấm nhuần tinh thần khoa học, được coi như "ba trụ cột" cơ bản, bảo đảm cho văn hóa Việt Nam phát triển mạnh mẽ và bền vững, đúng hướng. Đặc biệt, trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Lao động Việt Nam (tháng 2/1951), khi xác định đường lối phát triển cho nền văn hóa mới Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nêu rõ và nhấn mạnh những nguyên tắc ấy: "Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc. Đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng"([1]).

Qua đó có thể thấy, Đề cương về văn hóa năm 1943 là văn kiện đặt nền móng, mở đường cho việc xây dựng lý luận văn hóa cách mạng ở Việt Nam, là ngọn cờ tập hợp, cổ vũ giới trí thức, văn nghệ sĩ nước nhà hăng hái tham gia sự nghiệp cách mạng do Đảng ta lãnh đạo. Trong hơn 80 năm qua kể từ khi ra đời, nhiều định hướng quan trọng của Đề cương về văn hóa Việt Nam đã được Đảng ta kế thừa, bổ sung, phát triển, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới.

Gần đây nhất là Nghị quyết 33-NQ/TW ngày 9/6/2014, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và những vấn đề đặt ra hiện nay đã xác định mục tiêu xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hoàn thiện thể chế, chế định pháp lý và thiết chế văn hóa bảo đảm xây dựng và phát triển văn hóa, con người trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ rõ: "Lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam làm nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững"; "Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại" là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững. Đáng chú ý, diễn ra vào dịp kỷ niệm 75 năm ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất (24/11/1946), Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021 dưới dự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được đánh giá như một "hội nghị Diên Hồng" của toàn ngành Văn hóa. Tại hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài phát biểu chỉ đạo quan trọng, trong đó khẳng định lại quan điểm xuyên suốt của Đảng là văn hóa phải được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã hội, "văn hóa soi đường cho quốc dân đi", xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Như vậy có thể thấy, từ Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943 đến Hội nghị Văn hóa toàn quốc 1946, Hội nghị Văn hóa toàn quốc 2021 cũng như các nghị quyết, văn kiện Đại hội Đảng đã có sự kế thừa, phát triển tư duy về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam; xác định tầm nhìn chiến lược, sâu rộng của Đảng trong về phát triển văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới. Nhờ đó, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, đạt kết quả quan trọng. Tư duy lý luận về văn hóa có bước phát triển; nhận thức về văn hóa của các cấp, các ngành và toàn dân được nâng lên. Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng; công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ…

Một số vấn đề đặt ra hiện nay

Một là, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một số ít bộ phận trong xã hội. Một số nơi, trong một số trường hợp, đạo đức, văn hóa xã hội lại bị xuống cấp … Vấn nạn bạo lực học đường có xu hướng gia tăng, không chỉ học sinh đánh học sinh mà còn học sinh đánh thầy cô giáo, thầy cô giáo đánh học sinh; giáo viên có hành vi chưa đúng mực ở môi trường sư phạm… Ngoài ra trong xã hội còn nổi lên như bạo lực gia đình, tình trạng ly hôn gia tăng, nhất là trong giới trẻ…

Hai là, một số nơi vấn đề đầu tư cho văn hóa chưa được tương xứng. Thực tế một số địa phương chưa quan tâm đầy đủ đến lĩnh vực này; lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết liệt. So với các lĩnh vực khác, đầu tư cho lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật chưa tương xứng, còn dàn trải và hiệu quả thấp, chưa nắm bắt kịp thời những vấn đề mới về văn hóa, nghệ thuật để đầu tư đúng hướng và có hiệu quả.

Mức đầu tư cho văn hóa thấp, nhiều địa phương không phát huy được lợi thế xây dựng một bộ phận văn hóa trở thành ngành công nghiệp văn hóa quan trọng giúp tăng nhanh nguồn thu cho ngân sách.

Ba là, nguồn nhân lực làm văn hoá thiếu và yếu. Văn kiện Ðại hội XIII đã thẳng thắn, khách quan chỉ ra "chất lượng và số lượng đội ngũ cán bộ văn hóa chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển văn hóa trong thời kỳ mới", từ đó nhấn mạnh một nhiệm vụ lớn và khó là đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, tham mưu, nhất là cán bộ chủ chốt thực sự am hiểu về văn hóa, có phẩm chất, bản lĩnh, năng lực chuyên môn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Đội ngũ cán bộ văn hóa thiếu trầm trọng ở cơ sở. Đa số phải kiêm nhiệm nhiều công việc, hiểu biết về văn hóa, kinh nghiệm thiếu... Theo báo cáo của Ủy ban Văn hóa, giáo dục của Quốc hội thẩm tra giữa kỳ kết quả thực hiện kế hoạch kinh tế, xã hội giai đoạn 2021 – 2025 đã chỉ ra tình trạng một số cán bộ văn hóa xã phải phụ trách tới 17 lĩnh vực.

Nếu tính về số lượng, cán bộ văn hóa hiện nay vẫn đang thiếu, nhất là trong những ngành nghệ thuật. Có thể kể đến sự thiếu hụt lực lượng giáo viên, giảng viên đứng lớp giảng dạy tại các trường đào tạo về văn hóa hoặc lực lượng biểu diễn nghệ thuật tại các địa phương. Sâu xa hơn, thực trạng thiếu giáo viên đến từ thực trạng... thiếu sinh viên của các ngành đào tạo nhân sự văn hóa. Hiện nay, cả nước có 40 cơ sở đào tạo trung cấp, cao đẳng, đại học trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, 1 viện nghiên cứu có đào tạo tiến sĩ và khoảng 80 cơ sở công lập và tư thục tham gia đào tạo các ngành trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Nhưng rất nhiều đơn vị đào tạo không tuyển đủ chỉ tiêu hàng năm, nhiều trường phải cho giáo viên nghỉ bớt vì quá ít sinh viên, hoặc không có sinh viên theo học.

Bốn là, sự tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một bộ phận trong xã hội, nhất là lớp trẻ qua các ấn phẩm văn hóa nước ngoài. Quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập với thế giới ngày càng sâu rộng, bên cạnh tiếp thu, hấp thụ những giá trị, tinh hoa văn hóa của nhân loại, nước ta đang phải đối mặt với một thách thức, nguy cơ không nhỏ. Những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của mạng internet, mạng xã hội, văn hóa nước ngoài xâm nhập vào nước ta ngày càng dễ dàng, dẫn tới nhiều giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của ông cha bị ảnh hưởng, nhiều hành vi phản văn hóa mới xuất hiện. Đó là tình trạng một bộ phận giới trẻ thần tượng idol quá mức, thiếu kiểm soát, chạy theo lối sống rời xa thực tế; là các trào lưu xấu, tiêu cực được lan truyền mạnh mẽ trên mạng xã hội…Có ý kiến cho rằng, một số thanh, thiếu niên không nhận thức đầy đủ về văn hóa thẩm mỹ của dân tộc, dẫn đến thị hiếu sai lệch, lệch chuẩn về giá trị đạo đức. Tiêu biểu là sự xuất hiện của Khá "bảnh", Dương Minh Tuyền, Huấn "hoa hồng"… được một bộ phận giới trẻ tung hô, thần tượng như "idol mạng".

Năm là, phát triển ngành công nghiệp văn hóa còn hạn chế.

Trên thực tế, việc phát triển công nghiệp văn hóa nhìn chung còn nhiều hạn chế, một số địa phương chưa được quan tâm đúng mức… Do đó chưa phát huy hết tiềm năng, lợi thế của địa phương.

Cũng cần thừa nhận một thực tế là một số các sản phẩm công nghiệp văn hóa chưa đa dạng, phong phú, kém hấp dẫn, thiếu tính ứng dụng nên chưa đáp ứng được thị hiếu và thẩm mỹ ngày càng cao của người tiêu dùng trong nước và nước ngoài. Ngoài ra, nhiều sản phẩm chưa khai thác tối ưu đặc sắc văn hóa bản địa, khó định hình thương hiệu quốc gia nên sức cạnh tranh không cao, gặp nhiều trở ngại khi tiếp cận các thị trường quốc tế…

Đi tìm giải pháp

Thứ nhất, cần quan tâm đầu tư tương xứng cho văn hóa theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII, Hội nghị Văn hóa toàn quốc 2021. Tiếp tục nâng cao nhận thức và năng lực lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa để đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội…

Sử dụng hiệu quả nguồn đầu tư của Nhà nước, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên các vùng miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và một số loại hình nghệ thuật truyền thống cần bảo tồn, phát huy. Cùng với đó, đẩy mạnh xã hội hóa nhằm huy động các nguồn đầu tư cho phát triển văn hóa, xây dựng con người.

Thứ hai, cần thực hiện tốt theo Quy hoạch mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao; Quy hoạch hệ thống du lịch thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chiến lược phát triển thể dục, thể thao Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 vừa được thông qua. Trong đó phát triển mạng lưới cơ sở văn hóa quốc gia đồng bộ, hiện đại, bản sắc, hướng đến xây dựng hình ảnh quốc gia gắn với tiếp thu tinh hoa văn hóa thời đại, đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định và nhu cầu thực tiễn; bảo đảm công bằng trong tham gia, hưởng thụ của nhân dân các vùng, khu vực trong cả nước; bảo đảm thực hiện tốt nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc; bảo đảm liên kết vùng và liên kết với các kết cấu hạ tầng khác trong phạm vi lãnh thổ. Phát triển mạng lưới cơ sở văn hóa và thể thao gắn với cơ chế thị trường, là nguồn lực phát triển công nghiệp văn hóa và kinh tế thể thao. Hình thành các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của xã hội, phục vụ học tập, rèn luyện suốt đời của người dân, góp phần xây dựng xã hội học tập và nâng cao chất lượng cuộc sống.

Thứ ba, phát triển mạnh mẽ công nghiệp văn hóa gắn với phát huy tiềm năng thế mạnh của quốc gia, từng địa phương, vùng. Đặc biệt, thực hiện tốt Chỉ thị số 30/CT-TTg ngày 29/8/2024 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam. Trong đó phát triển các ngành công nghiệp văn hóa phải bảo đảm khai thác tối đa, hiệu quả tiềm năng, lợi thế; đa dạng, liên kết đa ngành, lĩnh vực; có tư duy sắc bén, hành động quyết liệt, hiệu quả, biết lựa chọn tinh hoa và tạo đột phá phát triển; đáp ứng được các yếu tố: Sáng tạo, bản sắc, độc đáo, chuyên nghiệp, lành mạnh, cạnh tranh, bền vững trên nền tảng dân tộc, khoa học, đại chúng; từng bước tạo dựng thương hiệu quốc gia, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; phù hợp với quy luật của kinh tế thị trường, luật pháp trong nước và quốc tế. Đặc biệt, các bộ, ngành, địa phương cần chủ động rà soát, tham mưu trình cấp có thẩm quyền sửa đổi, ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản pháp luật, cơ chế, chính sách cần thiết để hỗ trợ, khuyến khích và thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trong giai đoạn tới.

Thứ tư, đẩy mạnh công tác sắp xếp; xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách phù hợp, chú ý đến tính đặc thù của hoạt động văn hóa, nghệ thuật, khơi thông các nguồn lực xã hội, nguồn lực trong nước và nước ngoài cho phát triển văn hóa; xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ phát triển văn hóa Việt Nam trong giai đoạn mới. Chú trọng bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các vùng, miền, của đồng bào các dân tộc, kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại; chú trọng xây dựng văn hóa ứng xử lành mạnh trong xã hội, phát huy những giá trị tích cực về thuần phong, mỹ tục của gia đình và xã hội; nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết.. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số, kỹ thuật số trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.

Thứ năm, xây dựng và thực hiện tốt các quy tắc ứng xử trong cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, nơi công cộng. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, công nghệ số, xã hội số, văn hoá số... vừa đem lại những cơ hội, vừa tạo ra thách thức mới trong việc xây dựng và phát triển văn hoá. Đồng thời, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức của an sinh truyền thống, an sinh phi truyền thống, nhất là sự biến đổi khí hậu và dịch bệnh, xung đột vũ trang, "diễn biến hòa bình"… Đứng trước những thời cơ và thách thức mới, yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng nước ta là phải tiếp tục xây dựng, giữ gìn và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, là "nền tảng tinh thần", "động lực phát triển", và "soi đường cho quốc dân đi"; phát huy giá trị văn hoá và sức mạnh con người Việt Nam, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng, tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện thành công mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI./.

    Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 7. tr. 40

THS Nguyễn Thị Minh Trang - Đại học Văn hóa Hà Nội