Việc làm của lao động nhập cư đến vùng Đông Nam Bộ

Thứ năm, 20/03/2025 - 14:26

Thị xã Trảng Bàng tỉnh Tây Ninh, là cửa ngõ phía Tây của Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay, trên địa bàn thị xã tập trung nhiều khu, cụm công nghiệp nên thu hút rất nhiều lao động bên ngoài thị xã và cả ngoại tỉnh đến sinh sống và làm việc. Tuy nhiên, việc làm của lao động nhập cư trên địa bàn thị xã chưa bền vững, người nhập cư thường rơi vào tình trạng thiếu việc làm và thất nghiệp. Nghiên cứu việc làm của lao động nhập cư là điều quan trọng và rất cần thiết, đặc biệt khi Trảng Bàng là một trong những địa phương có nhiều khu, cụm công nghiệp đang thu hút rất nhiều lao động từ khu vực nông thôn đến làm việc và cư trú.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Kết quả khảo sát 644 người lao động nhập cư trên địa bàn thị xã Trảng Bàng cho thấy thực trạng việc làm của người lao động như sau: công việc vất vả, nặng nhọc, chiếm nhiều thời gian.

Đối với lao động nhập cư (LĐNC), việc lựa chọn công việc sẽ trở nên khó khăn khi LĐNC bị hạn chế về tay nghề và trình độ chuyên môn. Nhóm lao động đã kết hôn, có gia đình thường có nhiều lựa chọn hơn là chấp nhận công việc hiện tại. Số liệu khảo sát cho thấy công nhân và lao động tự do hiện là hai nhóm có công việc năng nhọc, căng thẳng nhất mà LĐNC đang làm việc. Hơn 49% lao động làm công nhân và 23,6% lao động tự do được khảo sát cho biết hiện đang làm các công việc nặng nhọc.

Công việc chiếm nhiều thời gian là một trong những đặc điểm việc làm của LĐNC tại thị xã Trảng Bàng. Do tính chất công việc và thời gian làm việc khác biệt nhiều so với sản xuất nông nghiệp, lao động làm dịch vụ, công nghiệp phải làm nhiều thời gian, tăng ca làm thêm giờ. Đây cũng là một trong những trở ngại và thách thức đối với LĐNC tại thị xã Trảng Bàng.

Với gánh nặng gia đình, con cái lao động nữ càng gặp khó khăn trong công việc đòi hỏi nhiều thời gian. Kết quả khảo sát cho thấy lao động chuyển việc do công việc cũ chiếm nhiều thời gian phần lớn là nữ giới với tỷ lệ 58,8% so với 41,2% nam giới.

Nhóm lao động có kinh nghiệm làm việc từ trên 2 năm cũng có nhiều lựa chọn công việc hơn so với nhóm lao động mới đến chưa được nhiều thời gian. Cùng với sự ổn định cuộc sống tại nơi đến, LĐNC sẽ tích lũy dược kinh ngiệm và kỹ năng để có thể tìm những công việc tốt hơn. Các công việc nặng nhọc, chiếm quá nhiều thời gian, cạnh tranh cao là yếu tố thúc đẩy người LĐNC tìm kiếm việc làm khác đỡ áp lực hơn, có thể gắn kết lâu dài.

Người lao động muốn duy trì được công việc và cuộc sống ổn định tại các đô thị thì điều kiện tiên quyết đó là phải đảm bảo về thu nhập. Đối với yếu tố giới, nhóm lao động nam chuyển việc do thu nhập thấp chiếm tỷ lệ cao hơn so với nhóm nữ, lao động nam chiếm tỷ lệ 52,2%, nhóm nữ chiếm tỷ lệ 47,8%. Đối với yếu tố nhóm tuổi, nhóm tuổi từ 26 - 55 tuổi là nhóm có tỷ lệ chuyển đổi việc làm do thu nhập thấp nhiều nhất trong các nhóm chiếm 70,4%, nhóm tuổi từ 16 - 25 chiếm tỷ lệ 27%. Như vậy, nhu cầu nâng cao thu nhập luôn tạo động lực để người lao động chuyển đổi việc làm, điều đó cũng đồng nghĩa với việc trình độ chuyên môn và tay nghề của người lao động đã được nâng cao. Thay bằng việc chấp nhận làm công việc cũ, người lao động đã sẵn sàng chuyển đổi việc làm và tìm kiếm công việc cho thu nhập cao hơn trước.

Đối với yếu tố trình độ học vấn, nhóm trình độ lao động chuyển đổi nhiều nhất là nhóm cao đẳng, đại học chiếm tỷ lệ 47,8%, thứ hai là nhóm trung học phổ thông chiếm tỷ lệ 40,9%. Nhóm lao động có trình độ cao đẳng, đại học là nhóm có tỷ lệ chuyển đổi việc làm nhiều hơn các nhóm bởi đây là nguồn lực chính trong các tổ chức, cơ quan. Đối với yếu tố trình trạng hôn nhân, nhóm lao động đã lập gia đình có mức độ chuyển đổi việc làm do công việc thu nhập nhất cao hơn so với các nhóm khác chiếm tỷ lệ 53,9%, thứ hai là nhóm chưa vợ/chồng chiếm tỷ lệ 44,3%.

Đối với yếu tố thu nhập, các nhóm lao động có thu nhập khác nhau có mức độ chuyển đổi khác nhau, nhóm thu nhập từ 3,1 - 5 triệu/tháng là nhóm có tỷ lệ chuyển đổi việc làm do thu nhập thấp nhiều nhất với 55,7% thứ hai là nhóm trên 5 triệu/tháng chiếm tỷ lệ 28,7%, ngoài ra, các nhóm thu nhập dưới 1 triệu/tháng và nhóm từ 1 - 3 triệu/ tháng lại chiếm tỷ lệ ít hơn. Như vậy, đối với LĐNC, các nhóm nhập cư với khoảng thời gian từ 2 năm trở lên mới có khả năng chuyển đổi việc làm. Điều đó đồng nghĩa với việc các nhóm dịch chuyển việc làm thường xuyên là các nhóm đã có kinh nghiệm làm việc và có thời gian làm việc tại các đô thị lớn, đối với các nhóm lao động mới nhập cư, tỷ lệ chuyển đổi việc làm có xuất hiện tuy nhiên chiếm tỷ lệ khá nhỏ. Đối với yếu tố nghề nghiệp, trong các nhóm nghề nghiệp, nhóm nghề chuyển đổi việc làm do thu nhập thấp nhiều nhất là nhóm công nhân, chiếm tỷ lệ 58,3%, thứ hai là các nhóm lao động tự do chiếm tỷ lệ 14,8%. Đây là hai nhóm đặc trưng cho nguồn lao động ở dạng thấp, không có tay nghề chuyên môn và chủ yếu làm việc theo mục đích thu nhập cao. Chính vì vậy, tỷ lệ chuyển đổi việc của hai nhóm này cũng cao hơn so với các nhóm khác. Đối với yếu tố cạnh tranh việc làm, trong các nhóm lao động chuyển đổi việc làm do thu nhập thấp có 27,8% lao động cho rằng thường xuyên bị cạnh tranh trong công việc, chiếm 38,3% tỷ lệ cho rằng thỉnh thoảng bị cạnh tranh trong công việc.

Người LĐNC tới thị xã Trảng Bàng có sự đa dạng về nhóm tuổi, nhưng kết quả khảo sát cho thấy nhóm tuổi từ 26-55 tuổi chiếm đa số với 66,61% số người LĐNC được khảo sát, tiếp đến là 30,75% là người có đội tuổi trẻ hóa là từ 16-25 tuổi, chỉ có 2,33% người nhập cư trong độ tuổi trên 55 tuổi.

Nhìn ở góc độ giới tính, người LĐNC vào thị xã Trảng bàng có sự cân đối đối với lao động nam và nữ khi khảo sát 644 người nhập cư có dự định sinh sống và làm việc tại thị xã cho thấy có 54,3% là nam, 45,7% là nữ. Các Khu công nghiệp tại thị xã Trảng Bàng phát triển nhanh chóng với nhiều công việc nặng nhọc, yêu cầu sức bền và thời gian nên lao động nam được thu hút về đây làm việc tương đối nhiều.

Từ góc độ học vấn của người LĐNC dự định sinh sống và làm việc tại thị xã Trảng Bàng cho thấy một tỷ lệ lớn người lao động có trình độ đại học, cao đẳng là 41,77%, tiếp đến là 36,65% có trình độ THPT. Các lao động có trình độ học vấn cao thường làm việc ở các vị trí công việc hành chính, quản lý nhân sự… tại các công ty, doanh nghiệp trong và ngoài khu công nghiệp trên địa bàn thị xã Trảng Bàng. Đối với lao động có trình độ THPT chủ yếu làm việc ở vị trí công nhân, lao động chân tay tại các xưởng, công ty. Lao động tự do chủ yếu được cấu thành từ nguồn LĐNC có trình độ học phần là THCS, tiểu học…

Nhìn tổng thể, LĐNC dự định sinh sống và làm việc tại thị xã Trảng Bàng có trình độ ở mức trung bình. Vì nhu cầu công việc tại thị xã chủ yếu lên quan đến các khu công nghiệp, các nhà máy nên lao động phổ thông được ưu tiên với giá rẻ và ít chuyển việc.

Về vấn đề hôn nhân của người LĐNC tại thị xã Trảng Bàng cho thấy, đa phần là đã kết hôn hoặc chưa kết hôn với 51,1% đã kết hôn và 47,2% chưa kết hôn. Nhiều vợ chồng đã làm việc tại thị xã Trảng Bàng 6-10 năm, họ đã thường trú và có nhà cửa ổn định.

Việc lựa chọn việc làm khi chuyển đển thị xã Trảng Bàng của LĐNC phản ánh trình độ tay nghề và mục đích di cư. Kết quả khảo sát cho thấy phần lớn LĐNC làm công nhân tại các công ty hoặc các khu công nghiệp (52,8%), lao động tự do (17,2%) và lao động trong các cơ sở sản xuất nhỏ (10,2). Việc ký kết hợp đồng góp phần đảm bảo sự an toàn về việc làm của người lao động. “Đi làm ở đây ngay lúc nào là bọn em được ký hợp đồng rồi chị ạ, cô chủ giữ một bản, bọn em giữ một bản. Ở đây họ làm hợp đồng nghiêm chỉnh chị ạ, chứ cũng không phải là chỗ linh tinh nên bọn em cũng yên tâm hơn.” (PVS, nữ, 22 tuổi). Các hợp đồng có thời hạn chủ yếu trên 01 năm góp phần đảm bảo sự ổn định cho người LĐNC.

Đối với người lao động, sau khi dịch chuyển từ nơi khác đến thị xã Trảng Bàng, để tìm kiếm việc làm phần lớn là tự tìm kiếm việc làm chiếm tỷ lệ 64,3%, phương thức phổ biến tiếp yếu tố là nhờ anh em, họ hàng, người thân chiếm tỷ lệ 23,1% hoặc người cùng ngành nghề chiếm tỷ lệ 10,2%. Một dấu hiệu tích cực đối với nhóm nhập cư đó là có tới 10,2% tỷ lệ người dân có hộ khẩu thường trú tại thị xã, như vậy. Bên cạnh đó cũng có những nhóm cư dân xác định sống và làm việc lâu dài, ổn định tại Trảng Bàng. Điều đó cho thấy người nhập cư đã thích ứng và phát triển được khi đến làm việc tại Trảng Bàng.

Kết luận

Có thể thấy, LĐNC được xem như một hiện tượng tất yếu xảy ra trong quá trình dịch chuyển của thị trường việc làm. Sự chuyển đổi của người lao động cũng tạo ra một nguồn lực lưu động và nguồn cơ hội việc làm cho nhiều nhóm lao động khác nhau. Kết quả đánh giá thực trạng thông qua khảo sát cho thấy hiện nay LĐNC trên địa bàn thị xã Trảng Bàng chủ yếu làm công nhân và tỷ lệ là nữ chiếm đa số với 58,8%. Đồng thời, các LĐNC này có công việc chiếm nhiều thời gian chủ yếu từ 2-5 năm và trong độ tuổi từ 26-55 tuổi, trình độ tập trung là trung học phổ thông.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

[1] Đặng Nguyên Anh (2023), “Đảm bảo an sinh xã hôi cho người lao động di cư đến đô thị: Thực trạng và giải pháp chính sách”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Chính sách An sinh xã hội đối với lao động di cư ở Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.

[2] Nguyễn Văn Bình (2021), Ảnh hưởng của LĐNC đến sự phát triển thị trường lao động Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Kinh tế TPHCM.

[3] Hoàng Văn Chức (2014), Di dân tự do đến Hà nội - Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

[4] Cục Thống kê Tây Ninh (2024), Niên giám thống kê Tây Ninh (Dữ liệu thị xã Trảng Bàng) 2021-2023, Tây Ninh.

[5] Ủy ban nhân dân thị xã Trảng Bàng (2023), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội của Thị xã các năm 2021, 2022, 2023, Tây Ninh.

Trần Khải Hoàn

Học viên cao học - Học viện Khoa học xã hội