
Ảnh minh họa
1. Đặt vấn đề
Tây Nguyên là vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng, gắn liền với những trang sử hào hùng trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, sau chiến tranh, nơi đây vẫn còn nhiều khó khăn do hậu quả nặng nề để lại. Đời sống của đồng bào các dân tộc thiểu số còn thiếu thốn, cơ sở hạ tầng chưa phát triển đồng đều, trong khi các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động, gây chia rẽ, làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân.
Trước tình hình đó, việc xây dựng thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên địa bàn Tây Nguyên trở thành nhiệm vụ cấp bách góp phần bảo đảm an ninh chính trị được giữ vững. Mục tiêu là bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, ngăn chặn mọi âm mưu phá hoại từ bên ngoài. Đồng thời, cần tạo điều kiện để nhân dân ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế - xã hội, từng bước khắc phục hậu quả chiến tranh. Để thực hiện hiệu quả, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng chức năng, chính quyền địa phương và người dân. Công tác an ninh phải gắn liền với phát triển bền vững, đảm bảo quốc phòng đi đôi với xây dựng kinh tế. Bên cạnh đó, cần linh hoạt điều chỉnh tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động để thích ứng với những thay đổi của tình hình trong nước và quốc tế, nhất là trong bối cảnh khu vực và thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Chỉ khi xây dựng được thế trận an ninh nhân dân vững mạnh, dựa trên nền tảng đoàn kết dân tộc và sự đồng thuận xã hội, Tây Nguyên mới thực sự trở thành một địa bàn chiến lược ổn định, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh quốc gia.
2. Khái quát về thế trận an ninh nhân dân và an ninh chính trị
Trong hệ thống các quan điểm và chủ trương về xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đặc biệt coi trọng việc xây dựng thế trận an ninh nhân dân. Tinh thần này đã được chính thức khẳng định trong văn kiện của Đại hội VII, thể hiện tầm nhìn chiến lược và dài hạn với phương châm "kết hợp củng cố nền quốc phòng toàn dân với xây dựng thế trận an ninh nhân dân"[1].
Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam đưa ra định nghĩa: "Thế trận an ninh nhân dân là hình thái tổ chức và bố trí lực lượng theo một ý đồ chiến lược để phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ an ninh, trật tự"[2] nhằm khẳng định vị trí và vai trò của nó như một nội dung công tác trọng yếu của lực lượng Công an nhân dân.
Từ kết quả đề tài khoa học cấp Nhà nước "Xây dựng thế trận an ninh nhân dân trong tình hình mới", GS. TS Bùi Quảng Bạ đã mở rộng và làm rõ hơn khái niệm này, theo đó: "Thế trận an ninh nhân dân là hình thái tổ chức, bố trí lực lượng và các nguồn lực theo một ý đồ chiến lược để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, nòng cốt là lực lượng Công an nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước, nhằm chủ động bảo vệ vững chắc an ninh, trật tự"[3]
Các khái niệm và định nghĩa về thế trận an ninh nhân dân đều nhấn mạnh tính chiến lược, toàn diện và vai trò trọng yếu của lực lượng Công an nhân dân. Thế trận này không chỉ là sự bố trí lực lượng mà còn là một hệ thống tổ chức và huy động nguồn lực một cách khoa học, kết hợp sức mạnh toàn dân và hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý thống nhất của Nhà nước, nhằm bảo vệ an ninh, trật tự một cách chủ động, hiệu quả. Những định nghĩa này phản ánh cả tầm nhìn chiến lược lẫn thực tiễn, đồng thời cung cấp cơ sở lý luận vững chắc cho việc xây dựng, củng cố và vận hành thế trận trong bối cảnh an ninh – xã hội hiện nay.
Thế trận an ninh nhân dân được hình thành từ ba yếu tố cơ bản. Thứ nhất, về lực lượng, bao gồm sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, lực lượng Công an nhân dân làm nòng cốt, đồng thời huy động sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống chính trị và mọi tầng lớp nhân dân, tạo nên phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Thứ hai, về cơ chế vận hành, bao gồm hệ thống chủ trương, chính sách, pháp luật về bảo vệ an ninh, trật tự, cùng các đề án, phương án và kế hoạch triển khai. Thứ ba, về điều kiện vận hành, gồm sức mạnh vật chất, tài chính, trang thiết bị, phương tiện và sự ủng hộ tinh thần từ cộng đồng, phục vụ cho các hoạt động bảo đảm an ninh, trật tự.
Thế trận an ninh nhân dân là sự kết hợp đồng bộ của các thành tố, được xây dựng trên các kế hoạch, phương án bài bản và chi tiết, với mục tiêu tối cao là bảo vệ an ninh quốc gia, duy trì trật tự, đảm bảo an toàn xã hội, đồng thời góp phần phục vụ phát triển kinh tế – xã hội. Quá trình xây dựng thế trận là việc hoàn thiện các bộ phận cấu thành trong mối quan hệ toàn diện, đồng bộ, đảm bảo phối hợp nhịp nhàng giữa các lực lượng. Khi các nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự được triển khai đồng bộ và thống nhất, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, quản lý của chính quyền và vai trò nòng cốt của lực lượng Công an nhân dân, thế trận sẽ chủ động làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động xâm phạm an ninh – trật tự, đồng thời phát huy hiệu quả trong việc bảo vệ đất nước và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.
Trong suốt chiều dài lịch sử, an ninh chính trị luôn là vấn đề sống còn đối với mọi quốc gia, dân tộc. Đối với Việt Nam - một đất nước trải qua nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, vấn đề này lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ở Việt Nam, an ninh chính trị được hiểu một cách toàn diện. Đó là sự ổn định vững chắc của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Là sự bảo đảm an toàn cho công tác nội bộ Đảng, cho việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, đó còn là sự bảo vệ chủ quyền quốc gia trước mọi âm mưu can thiệp từ bên ngoài, ngăn chặn mọi hành vi xâm phạm lãnh thổ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Đại hội XIII của Đảng xác định: "Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm TTATXH, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương". Như vậy, có thể định nghĩa An ninh chính trị là một bộ phận quan trọng của an ninh quốc gia, trong đó nhiệm vụ chính là duy trì sự ổn định và phát triển của nền tảng tư tưởng của Đảng, của thể chế chính trị; sự lãnh đạo của Đảng, sự an toàn nội bộ; hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước; bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc.
Kể từ khi Hòa ước Westphalia ra đời cho đến nay, vấn đề chủ quyền quốc gia luôn là trung tâm của an ninh chính trị. Các thách thức chủ yếu tập trung vào ba lĩnh vực then chốt: chủ quyền lãnh thổ (bao gồm đất liền, vùng biển và vùng trời); thể chế chính trị (gồm chế độ chính trị và các thiết chế chính trị cụ thể); và hệ tư tưởng chính trị (bao gồm nền tảng tư tưởng và các giá trị văn hóa chính trị). Trong đó, vấn đề chủ quyền lãnh thổ luôn là thách thức mang tính truyền thống và cấp thiết nhất. Trong bối cảnh hiện nay, khi thế giới đang trải qua những biến động phức tạp, an ninh chính trị của nước ta đứng trước cả cơ hội lẫn thách thức. Một mặt, chúng ta có điều kiện thuận lợi để phát triển đất nước, nâng cao vị thế quốc tế. Mặt khác, các thế lực thù địch không ngừng tìm cách chống phá bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, từ "diễn biến hòa bình" đến các hoạt động xâm phạm chủ quyền trên Biển Đông, hay những âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân.
3. Đặc điểm tình hình địa bàn chiến lược Tây Nguyên có liên quan đến xây dựng thế trận an ninh nhân dân
Tây Nguyên là địa bàn chiến lược có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Trước đây, địa bàn Tây Nguyên gồm 5 tỉnh, xếp từ Bắc vào Nam là: Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Lâm Đồng. Tây Nguyên tiếp giáp 6 tỉnh Duyên hải miền Trung từ Quảng Nam đến Bình Thuận ở phía Bắc và Đông; giáp Đồng Nai, Bình Thuận ở phía Nam; giáp Bình Phước và hai quốc gia Lào, Campuchia ở phía Tây. Với diện tích tự nhiên 54.548 km², chiếm 1/6 diện tích cả nước, vùng hội tụ khí hậu, thổ nhưỡng và nguồn tài nguyên – khoáng sản quý hiếm, nổi bật là khoảng 1 triệu ha đất đỏ bazan màu mỡ, hơn 3 triệu ha rừng (35,7% diện tích rừng cả nước) và trữ lượng bô-xít khoảng 10 tỷ tấn, chiếm 90% trữ lượng quốc gia.
Hiện nay, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, Tây Nguyên được điều chỉnh địa giới, hợp nhất với một số tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ, hình thành các tỉnh mới: Quảng Ngãi, Gia Lai, Đắk Lắk và Lâm Đồng. Toàn vùng có 457 đơn vị hành chính cấp xã (xã, phường, đặc khu), trong đó 264 đơn vị thuộc địa bàn Tây Nguyên (bao gồm toàn bộ xã, phường của 5 tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng trước khi sáp nhập), với 6.612 thôn, buôn, tổ dân phố. Quy mô hành chính này bắt đầu áp dụng từ ngày 01/7/2025.
Những năm qua, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực của đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trên địa bàn, Tây Nguyên đã có bước phát triển cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Tình hình an ninh chính trị toàn vùng cơ bản ổn định, kinh tế – xã hội có bước phát triển khá; việc liên kết vùng và hội nhập quốc tế có nhiều chuyển biến tích cực; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số từng bước được cải thiện. Tây Nguyên sở hữu tiềm năng lớn về kinh tế – xã hội với hơn 2 triệu ha đất đỏ bazan, chiếm 60% cả nước, thuận lợi phát triển nông nghiệp đa dạng, chuyên canh cà phê, cao su, hồ tiêu, điều, bông vải, cây ăn trái. Khu vực có 2,59 triệu ha rừng, độ che phủ 46,34%, giữ vai trò quan trọng trong lâm nghiệp, cân bằng sinh thái và bảo vệ nguồn sinh thủy cho miền Trung, Đông Nam Bộ. Tài nguyên khoáng sản phong phú (than bùn, sắt, cao lanh, bô-xít), nguồn nước và thủy điện dồi dào, cùng tiềm năng du lịch nhờ cảnh quan hùng vĩ, văn hóa đặc sắc của 53 dân tộc thiểu số (gần 2,2 triệu người, chiếm 37,5% dân số vùng) trong tổng gần 6 triệu cư dân, nổi bật là Ê đê, Mnông, Giarai, Bana. Có thể khái quát một số nét nổi bật về tình hình có liên quan đến xây dựng thế trận an ninh nhân dân trên địa bàn Tây Nguyên như sau:
Thứ nhất, về công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và lực lượng Công an nhân dân. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc nhằm đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng Công an nhân dân, quyết định sự thành công của sự nghiệp bảo đảm an ninh, trật tự, trong đó có xây dựng thế trận an ninh nhân dân. Vai trò lãnh đạo, chỉ đạo điều hành của cấp ủy, chính quyền địa phương các tỉnh Tây Nguyên trong xây dựng thể trận an ninh nhân dân thể hiện ở việc ban và lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện các nghị quyết, chính sách huy động sự tham gia và phát huy vai trò của các lực lượng trong bảo đảm an ninh, trật tự. Thực tế thời gian qua, các cấp ủy, chính quyền các địa phương trên địa bàn Tây Nguyên đều xác định vai trò công tác bảo đảm an ninh, trật tự tại địa bàn từ đó quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành công tác này trong thực tế, nhờ đó tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn Tây Nguyên cơ bản được giữ vững.
Thứ hai, về công tác xây dựng phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên. Trong công tác bảo đảm an ninh, trật tự ở vùng chiến lược này, sự tham gia chủ động của Nhân dân luôn giữ vai trò then chốt. Thông qua việc hình thành, duy trì và nhân rộng các mô hình tự quản về an ninh, trật tự, phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc đã trở thành một lực lượng xã hội rộng lớn, huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn dân, từ thôn, buôn, tổ dân phố cho tới cơ quan, doanh nghiệp. Thời gian qua, các cấp ủy, chính quyền địa phương Tây Nguyên đã quán triệt, triển khai nghiêm túc Kết luận số 44-KL/TW ngày 22/01/2019 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 09-CT/TW ngày 01/12/2011 khóa XI, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc trong tình hình mới. Công an các tỉnh trong vùng đã chủ động tham mưu cho Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và xây dựng phong trào của tỉnh ban hành chương trình, kế hoạch hằng năm; đồng thời trực tiếp hướng dẫn, tổ chức thực hiện và nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến. Kết quả, giai đoạn 2018–2024, toàn vùng Tây Nguyên đã xây dựng và duy trì hoạt động 478 mô hình cùng 50 điển hình tiên tiến[4], phủ khắp nhiều loại hình địa bàn (nông thôn, đô thị, cơ quan, doanh nghiệp) và lĩnh vực (an ninh trật tự, phòng cháy chữa cháy, phòng chống tội phạm…). Các mô hình này không chỉ do cấp ủy, chính quyền chỉ đạo mà còn có sự khởi xướng của các đoàn thể, tổ chức chính trị – xã hội, phối hợp chặt chẽ với lực lượng Công an để vận động hội viên, đoàn viên và nhân dân tham gia. Kinh phí và điều kiện hoạt động được huy động linh hoạt từ nhiều nguồn, bảo đảm tính bền vững và hiệu quả.
Đặc biệt, tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các mô hình phong trào đã góp phần nâng cao nhận thức pháp luật, củng cố tinh thần cảnh giác, tạo điều kiện để người dân trực tiếp tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở, giữ gìn chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia. Thông qua đó, Nhân dân tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, lịch sử, dân chủ, nhân quyền để tuyên truyền xuyên tạc, kích động ly khai, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Phong trào cũng đóng vai trò quan trọng trong quản lý, giáo dục, cảm hóa đối tượng Fulro tại cộng đồng, đặc biệt là vận động số đối tượng "có đạo" quay về sinh hoạt tại các tổ chức tôn giáo hợp pháp, góp phần giữ vững sự ổn định chính trị – xã hội ở vùng chiến lược Tây Nguyên.
Thứ ba, về cơ chế, chính sách và các điều kiện vận hành thế trận an ninh nhân dân trên địa bàn Tây Bắc. Xác định vị trí, vai trò quan trọng của vùng chiến lược Tây Bắc, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và đã ban hành nhiều chủ trương, quan điêm về bảo đảm an ninh, trật tự trên địa bàn Tây Bắc, tập trung vào an ninh trên các lĩnh vực dân tộc, tôn giáo, như: Chỉ thị số 06/2008/CT-TTg ngày 01/02/2008 của Thủ tướng Chính phủ về phát huy vai trò người có uy tín trong đông bào dân tộc thiểu số trong sự nghiêp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; Nghị quyết số 28-NO/TW ngày 25/10/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 05/9/2019 của Bộ Chính trị về Chiến lược Bảo vệ an ninh quốc gia... Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật về bảo đảm an ninh, trật tự ngày càng được hoàn thiện, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động bảo đảm an ninh, trật tự nói chung, xây dựng thế trận an ninh nhân dân trên địa bàn Tây Nguyên nói riêng. Đồng thời, Đảng, Nhà nước cũng ban hành nhiều chủ trương phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đối với các địa bàn thuộc khu vực Tây Bắc, điển hình như Nghị quyết 23-NQ/TW ngày 06/10/2022 của Bộ Chính trị về "Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045". Nhìn chung, các cơ chế, chính sách và điều kiện đảm bảo được bố trí đầy đủ, đáp ứng yêu cầu vận hành thế trận an ninh nhân dân trên địa bàn vùng chiến lược Tây Nguyên.
Thứ tư, Trong nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, lực lượng vũ trang đã chủ động nắm chắc tình hình, kịp thời tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng và triển khai các phương án đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, phản động, kiên quyết không để hình thành tổ chức chính trị đối lập trên địa bàn. Đồng thời, tập trung xử lý dứt điểm những vấn đề phức tạp về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, góp phần giữ vững ổn định, tạo tiền đề cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Tiềm lực quốc phòng, an ninh không ngừng được củng cố, gắn kết chặt chẽ thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân, hình thành "thế trận lòng dân" ngày càng vững chắc. Công tác đối ngoại với các địa phương nước láng giềng được triển khai hiệu quả, góp phần bảo vệ vững chắc an ninh, chủ quyền biên giới quốc gia, xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển, tạo "vành đai" bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.
Thực tiễn cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt được trong bảo đảm an ninh, trật tự, khu vực này vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức phức tạp, tác động trực tiếp đến việc xây dựng và củng cố thế trận an ninh nhân dân:
Trước hết, Tây Nguyên vẫn là khu vực phát triển chậm so với tiềm năng. Kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp nhưng trình độ canh tác, ứng dụng khoa học – kỹ thuật còn hạn chế, năng suất chưa cao, thiếu sự liên kết vùng và liên kết chuỗi giá trị. Kinh tế du lịch dù đã khai thác được nét đặc sắc văn hóa địa phương, song phát triển chưa đồng bộ; kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông, còn bất cập. Tỷ lệ hộ nghèo, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, vẫn ở mức cao; đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn. Đây là những điều kiện dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng để kích động, chia rẽ, lôi kéo người dân tham gia các hoạt động xâm hại an ninh.
Tình hình an ninh, trật tự cơ bản ổn định nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định. Hoạt động tôn giáo trái pháp luật, di cư tự do, tranh chấp đất đai, tệ nạn xã hội và các loại tội phạm – đặc biệt là ma túy, mua bán người qua biên giới – diễn biến phức tạp. Đáng chú ý, các thế lực thù địch và phản động từ bên ngoài lợi dụng chính sách mở cửa, hội nhập cùng các vấn đề "dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền" để tuyên truyền xuyên tạc, gây mâu thuẫn giữa các tộc người, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. Chúng kích động tư tưởng ly khai, tự trị, móc nối, phục hồi tàn dư FULRO, mưu đồ lập cái gọi là "Nhà nước Đê-ga độc lập", gây rối an ninh chính trị và tạo cớ cho nước ngoài can thiệp.
Yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo tại Tây Nguyên cũng có ảnh hưởng lớn đến an ninh, trật tự. Người dân tộc thiểu số chủ yếu theo tín ngưỡng đa thần, coi trọng "vạn vật hữu linh", kết hợp với các tôn giáo như Công giáo, Phật giáo và đặc biệt là Tin Lành. Sự phát triển mạnh của Tin Lành giúp đồng bào mở rộng giao lưu với các cộng đồng cùng đức tin trong và ngoài nước, hình thành mối liên kết tộc người – tôn giáo liên khu vực, xuyên quốc gia. Tuy nhiên, chính đặc điểm này cũng bị một số đối tượng phản động lợi dụng để móc nối, tổ chức lực lượng, hỗ trợ hoạt động chống phá, điển hình như âm mưu thành lập "Nhà nước Mông" hoặc lôi kéo tín đồ theo tà đạo, đạo lạ.
Những khó khăn, thách thức nêu trên tác động trực tiếp đến quá trình xây dựng và phát huy hiệu quả thế trận an ninh nhân dân tại Tây Nguyên. Dù thời gian qua, thế trận này đã góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, nhưng trước yêu cầu mới, cần tiếp tục củng cố, nâng cao sức mạnh từ cơ sở. Trọng tâm là xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên – nhất là người dân tộc thiểu số – đủ phẩm chất, năng lực, uy tín để triển khai hiệu quả các chủ trương, đường lối về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo nền tảng vững chắc cho một thế trận an ninh nhân dân mang tính bền vững, chủ động, sâu rộng.
4. Một số giải pháp xây dựng, củng cố thế trận an ninh nhân dân trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên trong bối cảnh mới
Tây Nguyên - vùng đất chiến lược với vị trí địa chính trị đặc biệt quan trọng, nơi hội tụ nhiều dân tộc anh em cùng sinh sống, luôn là địa bàn trọng điểm trong công tác bảo đảm an ninh chính trị của cả nước. Trong bối cảnh hiện nay, khi các thế lực thù địch không ngừng tìm cách lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, việc xây dựng thế trận lòng dân vững chắc trở thành nhiệm vụ cấp thiết. Để xây dựng, củng cố thế trận an ninh nhân dân góp phần bảo đảm an ninh chính trị trên địa bàn chiến lược Tây Nguyên thời gian tới cần thực hiện đồng bộ một số nội dung sau:
Một là, tập trung kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên. Xây dựng và củng cố hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh là nhiệm vụ then chốt, giữ vai trò hạt nhân trong xây dựng thế trận an ninh nhân dân và bảo đảm an ninh chính trị ở khu vực chiến lược Tây Nguyên. Hệ thống chính trị cơ sở không chỉ là "cầu nối" đưa chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước vào đời sống, mà còn là "trung tâm chỉ huy" trực tiếp lãnh đạo, quản lý và huy động sức mạnh toàn dân trong giữ gìn ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Muốn phát huy vai trò này, cần tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của chính quyền cơ sở. Công tác xây dựng Đảng phải đồng bộ về chính trị, tổ chức và con người; phát triển đội ngũ đảng viên vừa đảm bảo số lượng, vừa đáp ứng yêu cầu chất lượng, đặc biệt là phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị và năng lực xử lý tình huống ở địa bàn cơ sở. Bộ máy chính quyền cần được kiện toàn tinh gọn, cơ cấu hợp lý, nhưng đủ sức điều hành, nắm chắc tình hình, chủ động giải quyết các vấn đề phát sinh ngay từ cơ sở theo phương châm "4 tại chỗ".
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ – nhất là cán bộ, đảng viên là người dân tộc thiểu số – đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành lực lượng am hiểu địa bàn, nắm chắc phong tục, tập quán, dễ dàng vận động quần chúng, củng cố "thế trận lòng dân". Khi hệ thống chính trị cơ sở thực sự trong sạch, vững mạnh, Tây Nguyên sẽ có một nền tảng vững chắc để chủ động bảo vệ an ninh chính trị, giữ vững trật tự an toàn xã hội và tạo môi trường ổn định cho phát triển kinh tế – xã hội bền vững.
Hai là, quán triệt và triển khai đồng bộ, hiệu quả các chủ trương, nghị quyết của Đảng, Nhà nước và Bộ Công an về xây dựng thế trận an ninh nhân dân trên địa bàn Tây Nguyên. Đây không chỉ là yêu cầu mang tính nguyên tắc, mà còn là giải pháp trực tiếp nâng cao năng lực bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo nền tảng ổn định cho phát triển bền vững của toàn vùng. Trọng tâm là tiếp tục thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và các văn kiện chiến lược như Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 05/9/2019 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia; Nghị quyết số 44-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/3/2022 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Đồng thời, thực thi nghiêm Luật An ninh quốc gia năm 2004, Luật Quốc phòng, Luật Phòng thủ dân sự (khi được ban hành), Nghị định số 03/2019/NĐ-CP ngày 05/9/2019 của Chính phủ về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng, cũng như triển khai hiệu quả Đề án số 03/ĐA-BCA ngày 27/01/2023 của Bộ trưởng Bộ Công an về xây dựng thế trận an ninh nhân dân gắn kết chặt chẽ với thế trận quốc phòng toàn dân…
Trên cơ sở đó, cần chú trọng củng cố hệ thống chính trị cơ sở, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của các cấp ủy Đảng; nâng cao hiệu lực quản lý của chính quyền; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị – xã hội trong phối hợp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh ở các cấp phù hợp với thực tiễn, chú trọng giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; nhận diện rõ những âm mưu, thủ đoạn, quan điểm sai trái, xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch, phản động; phương thức, thủ đoạn hoạt động của các loại tội phạm, tệ nạn xã hội; chủ động phòng ngừa, ngăn chặn làm thất bại mọi âm mưu, hành động chống phá của các thể lực thù địch, phản động; nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân về vị trí, tầm quan trọng và ý nghĩa chiến lược của việc xây dựng, củng cố thế trận an ninh Nhân dân kết hợp chặt chẽ với thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc. Đây là điều kiện tiên quyết để thế trận an ninh nhân dân ở Tây Nguyên phát huy tối đa sức mạnh, tạo "lá chắn" vững chắc trước mọi âm mưu, hoạt động chống phá, đồng thời bảo đảm môi trường ổn định cho phát triển kinh tế – xã hội, củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc trên địa bàn.
Ba là, Xây dựng lực lượng Công an nhân dân trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt để củng cố thế trận an ninh nhân dân và bảo đảm an ninh chính trị tại địa bàn chiến lược Tây Nguyên. Trọng tâm là phát triển lực lượng Công an cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; ưu tiên tăng cường cho các đơn vị trực tiếp chiến đấu và lực lượng cơ sở; thường xuyên bồi dưỡng kỹ năng công tác dân vận, vận động quần chúng và xây dựng lực lượng hỗ trợ bảo vệ an ninh, trật tự tại địa phương (Công an xã bán chuyên trách, bảo vệ dân phố, dân phòng, bảo vệ cơ quan, doanh nghiệp, cơ sở giáo dục).
Dưới sự chỉ đạo của Công an tỉnh, lực lượng công an các cấp chủ trì, phối hợp với các ngành, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền triển khai hiệu quả Đề án số 03/ĐA-BCA ngày 27/01/2023 về "Xây dựng thế trận an ninh nhân dân kết hợp chặt chẽ với thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc". Cùng với đó là việc thực hiện đồng bộ các chủ trương, nghị quyết, kế hoạch về bảo đảm an ninh, trật tự; chủ động nắm chắc, dự báo chính xác tình hình; phòng ngừa, phát hiện sớm các yếu tố tiềm ẩn, không để phát sinh "điểm nóng"; kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, tấn công, trấn áp tội phạm và tệ nạn xã hội. Hoạt động tiếp nhận, xử lý tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố được nâng cao chất lượng, bảo đảm không để oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm. Công tác hỗ trợ tư pháp, thi hành án hình sự, quản lý hành chính về trật tự xã hội được thực hiện nghiêm; đồng thời hỗ trợ chính quyền, các ngành đẩy mạnh ứng dụng cơ sở dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử, phục vụ chuyển đổi số, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và sự hài lòng của người dân.
Thực tiễn chứng minh, lực lượng Công an nhân dân giữ vai trò nòng cốt trong bảo vệ an ninh quốc gia và xây dựng thế trận an ninh nhân dân ở Tây Nguyên. Để nâng cao hiệu quả, cần nhanh chóng ổn định tổ chức bộ máy Công an địa phương theo mô hình "Tỉnh toàn diện, xã vững mạnh, bám cơ sở", tránh khoảng trống để các thế lực thù địch lợi dụng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ – nhất là Công an xã và cán bộ người dân tộc thiểu số – phải gắn với yêu cầu am hiểu phong tục, tập quán, sử dụng thành thạo tiếng dân tộc, qua đó nắm tình hình sát cơ sở, xử lý kịp thời các vấn đề phức tạp, không để hình thành điểm nóng. Song song với củng cố lực lượng, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về an ninh, trật tự cần triển khai phù hợp đặc thù Tây Nguyên – nơi đời sống đồng bào còn nhiều khó khăn, nhận thức pháp luật chưa đồng đều. Hoạt động này phải kết hợp với nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, phát huy vai trò người có uy tín, các chức sắc tôn giáo, tổ chức đoàn thể, nhằm tạo sức lan tỏa sâu rộng, củng cố an ninh vững chắc ngay từ cơ sở.
Bốn là, tăng cường phát huy vai trò của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự và củng cố các mô hình tự quản trên địa bàn. Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở, được thành lập và hoạt động chính thức từ năm 2024 trên phạm vi cả nước, là "cánh tay nối dài" của lực lượng Công an trong thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự ngay tại cơ sở. Trong bối cảnh địa hình phức tạp, điều kiện kinh tế – xã hội còn khó khăn, nhiều địa bàn trọng điểm, nhạy cảm ở Tây Nguyên vẫn chủ yếu dựa vào lực lượng Công an để duy trì ổn định. Do đó, việc huy động và phát huy tối đa năng lực của lực lượng này, nhất là tại các địa bàn biên giới, khu vực bị tác động bởi luận điệu "Nhà nước Mông" hay các loại tà đạo, tín ngưỡng lạ, là yêu cầu cấp thiết. Cùng với đó, cần nhanh chóng khắc phục những hạn chế về số lượng, chất lượng nhân lực, chế độ chính sách và cơ chế phối hợp giữa lực lượng này với Công an cấp xã để nâng cao hiệu quả hoạt động.
Để các mô hình này phát huy hiệu quả ở Tây Nguyên, cần triển khai đồng bộ các biện pháp như: bồi dưỡng kỹ năng, trang bị cơ bản cho thành viên tổ tự quản, nhất là kỹ năng xử lý mâu thuẫn tại thôn, buôn; thiết lập cơ chế trao đổi thông tin chặt chẽ, kịp thời giữa tổ tự quản với Công an xã và chính quyền cơ sở; bố trí kinh phí lắp đặt hệ thống giám sát tại các điểm nóng, ứng dụng công nghệ để phản ánh nhanh thông tin về tình hình an ninh; và khen thưởng kịp thời các tập thể, cá nhân điển hình. Khi được vận hành đồng bộ, lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự cùng các mô hình tự quản sẽ tạo thành "lá chắn" vững chắc, góp phần xây dựng thế trận an ninh nhân dân vững mạnh ở Tây Nguyên.
Năm là, triển khai đồng bộ các giải pháp phát triển kinh tế – xã hội gắn với củng cố quốc phòng, an ninh. Trước hết, phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, đồng thời tập trung đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế – xã hội, coi đây là yếu tố nền tảng nâng cao đời sống nhân dân, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa vùng Tây Nguyên với các khu vực khác.
Việc triển khai hiệu quả Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến năm 2030, tầm nhìn 2045 cần được vận dụng sáng tạo vào điều kiện đặc thù của Tây Nguyên, trong đó ưu tiên hai lĩnh vực đột phá: hạ tầng giao thông và hạ tầng thông tin liên lạc. Với đặc điểm địa hình bị chia cắt bởi núi cao, thường xuyên chịu tác động của mưa lũ, việc phát triển hệ thống giao thông liên vùng, liên huyện, liên xã không chỉ giải quyết bài toán đi lại, mà còn mở ra "mạch máu" kết nối các hoạt động sản xuất, lưu thông hàng hóa, đặc biệt trong các lĩnh vực có lợi thế như nông sản, khai thác khoáng sản và du lịch văn hóa – sinh thái. Mặt khác, cần ưu tiên nguồn lực phát triển hạ tầng thông tin liên lạc, viễn thông hiện đại, bảo đảm phủ sóng tới các khu vực vùng sâu, vùng xa, biên giới. Trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, hạ tầng số không chỉ phục vụ nhu cầu thông tin và kết nối của người dân, mà còn là công cụ truyền tải nhanh chóng các chủ trương, chính sách, nâng cao nhận thức cộng đồng, kịp thời phản bác các luận điệu sai trái, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự xã hội.
Bên cạnh hạ tầng, cần thúc đẩy các giải pháp phát triển kinh tế dựa trên lợi thế đặc thù của Tây Nguyên. Đó là xây dựng nền nông nghiệp bền vững gắn với chế biến sâu, kết hợp du lịch sinh thái – văn hóa để vừa tạo giá trị kinh tế, vừa bảo tồn bản sắc dân tộc; khai thác hợp lý nguồn tài nguyên khoáng sản đi đôi với bảo vệ môi trường; tận dụng các cửa khẩu và hành lang kinh tế để phát triển thương mại, công nghiệp chế biến và dịch vụ logistics. Đặc biệt, nên áp dụng các cơ chế ưu đãi mạnh mẽ để thu hút doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư vào khu vực, nhất là ở các ngành có khả năng tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân. Khi kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện, niềm tin vào chính quyền và sự gắn bó với cộng đồng sẽ được củng cố, qua đó hình thành nền tảng xã hội vững chắc cho thế trận an ninh nhân dân và bảo đảm an ninh chính trị lâu dài ở Tây Nguyên.
Sáu là, tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng vũ trang, đặc biệt là Công an nhân dân và Quân đội nhân dân, giữ vai trò then chốt trong xây dựng thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân. Đây không chỉ là yêu cầu khách quan trong bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, mà còn là điều kiện tiên quyết để bảo đảm an ninh chính trị, giữ vững ổn định lâu dài cho toàn vùng. Triển khai hiệu quả Nghị định số 03/2019/NĐ-CP ngày 05/9/2019 của Chính phủ quy định về phối hợp giữa Bộ Công an và Bộ Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và nhiệm vụ quốc phòng; Nghị định số 02/2020/NĐ-CP ngày 30/6/2020 của Chính phủ quy định về hoạt động phối hợp của dân quân tự vệ với các lực lượng khác trong phòng, chống tội phạm, tạo khuôn khổ pháp lý quan trọng để các lực lượng cùng hành động. Trọng tâm là chia sẻ thông tin, phối hợp tuần tra, kiểm soát, xử lý các tình huống phức tạp tại khu vực biên giới, cửa khẩu; đồng thời gắn kết các lực lượng Công an, Quân sự, Bộ đội Biên phòng, Ủy ban MTTQ, các đoàn thể và các sở, ban, ngành trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc ngay từ cơ sở.
Nội dung phối hợp được triển khai toàn diện: rà soát, bổ sung quy chế phối hợp; xây dựng kế hoạch hành động cụ thể; đổi mới phong trào "Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc" theo hướng xã hội hóa, khuyến khích các mô hình tự phòng, tự quản, tự bảo vệ, tự hòa giải ở thôn, buôn, bản. Các địa phương duy trì hiệu quả "Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc", kịp thời biểu dương, khen thưởng tập thể, cá nhân tiêu biểu; đồng thời quan tâm, hỗ trợ chính sách cho những người hy sinh, bị thương, thiệt hại khi làm nhiệm vụ. Trên thực địa, Công an, Quân sự và Bộ đội Biên phòng luôn chủ động nắm chắc tình hình, trao đổi, dự báo, tham mưu giải pháp từ sớm, từ xa, từ cơ sở, không để bị động, bất ngờ. Các kế hoạch, phương án bảo vệ Tổ quốc được thường xuyên điều chỉnh, bổ sung để bảo đảm tính liên hoàn, sát với thực tiễn. Song song, các lực lượng phối hợp chặt chẽ trong thẩm định dự án liên quan đến quốc phòng – an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ, nâng cao chất lượng diễn tập, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng – an ninh cho các đối tượng, và đặc biệt là củng cố "thế trận lòng dân" vững chắc, nhất là tại vùng sâu, vùng xa, khu vực biên giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Chính trị (2013), Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 25/10/2013 về "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới", Hà Nội. Bộ Chính trị (2019), Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 05/9/2019 về "Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia", Hà Nội. Bộ Chính trị (2022), Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/3/2022 về "Đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới", Hà Nội. Bùi Quảng Bạ (2015), Xây dựng thế trận an ninh nhân dân – Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, XIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. Quốc hội (2004), Luật An ninh quốc gia. Quốc hội (2018), Luật Công an nhân dân. Viện Chiến lược và Khoa học Công an (2005), Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội. Báo Nhân Dân (2024), Cần nhân rộng các mô hình điển hình tiên tiến trong phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Truy cập tại: https://nhandan.vn/can-nhan-rong-cac-mo-hinh-dien-hinh-tien-tien-trong-phong-trao-toan-dan-bao-ve-an-ninh-to-quoc-post823312.html
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
[2] Viện Chiến lược và Khoa học Công an (2005), Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội
[3] Bùi Quảng Bạ (2015), Xây dựng thế trận an ninh nhân dân – Những ván đề lý luận và thực tiễn, Sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội.
[4] https://nhandan.vn/can-nhan-rong-cac-mo-hinh-dien-hinh-tien-tien-trong-phong-trao-toan-dan-bao-ve-an-ninh-to-quoc-post823312.html
Đại úy, ThS Trình Quốc Hưng
Học viện An ninh nhân dân